Tiêu đề: PHAP XAM LUOC VIET NAM (1858-1896) phan3 | |
| | | | | | Nguồn : Http://www.nguyenduc.sos4um.com/t78-topic
Tiêu Đề : PHAP XAM LUOC VIET NAM (1858-1896) phan3
http://nguyenducpn.tk - Kết Nối Cộng Đồng Nguyễn Dục Online -------------------------------------------------- 3. Tiến trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp (1858 - 1884) a. Pháp đánh chiếm Đà Nẵng (1858 - 1859) Kế hoạch của Pháp là chớp nhoáng chiếm Đà Nẵng rồi hành binh cấp tốc qua đèo Hải Vân tấn công kinh đô Huế, giải quyết nhanh gọn cuộc xâm lược. Sáng ngày 1/9/1858, quân xâm lược Pháp gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Nam Ngãi đòi quan quân nhà Nguyễn ở đây phải đầu hàng. Liền đó, 2.500 quân Pháp với 13 chiến thuyền, 50 đại bác cùng với 1 chiến thuyền 450 quân Tây Ban Nha nổ những phát súng đầu tiên tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) mở đầu mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. § Hành động tư bản Tây Ban Nha hùa theo Pháp trước hết là vì vấn đề tôn giáo, nhưng thực ra cũng là muốn chia xẻ quyền lợi thuộc địa. Sau khi bắn đại bác tới tấp vào Đà Nẵng, một cánh quân địch gồm 3 tàu chiến tập trung hỏa lực bắn vào các đồn ở Sơn Trà, yểm trợ cho cánh thứ hai tiến vào cửa sông. Quân địch đổ bộ chiếm đồn An Hải và đồn Điện Hải ở bán đảo Sơn Trà rồi tiến sâu vào nội địa đánh tan phòng tuyến của quân triều đình ở xã Mỹ Thị, lan sang chiếm xã Cẩm Lệ. Trước thế địch ào ạt, nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng lập tức thực hiện “vườn không nhà trống”, cô lập địch giữa bãi cát với mấy đồn vừa chiếm. Khắp nơi trong vùng, những đội dân quân “gồm tất cả những người không đau ốm và bệnh tật” gấp rút được thành lập, sẵn sàng chống trả những đòn tấn công mới của địch. Vua Tự Đức cử Nguyễn Tri Phương vào làm Tổng thống quân thứ Quảng Nam, chỉ huy mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng. Ngay khi vào đến Đà Nẵng, Nguyễn Tri Phương cho đắp một lũy dài từ Hải Châu (ven biển) vào tới Phúc Ninh, Thạch Giản, đào hố cắm chông trước lũy. Được nhân dân ứng nghĩa ủng hộ, lũy được hoàn thành trong một thời gian rất ngắn. Quân Pháp tấn công lũy từ ba phía nhưng không hiệu quả, kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của địch không thành. Sau 5 tháng, đến đầu tháng 1-1859, quân Pháp vẫn chỉ dừng lại ở việc chiếm đóng ở Sơn Trà và vùng phía nam sông Đà Nẵng. Trong báo cáo đề ngày 4.1.1859, đô đốc De Genouilly viết: “chúng ta đang xuống dốc đến kiệt quệ ở Đà Nẵng. Mọi phương tiện để cải thiện tình hình bộ binh và hải quân đều hết sạch và vô hiệu. Hơn 10 ngày sau (15.1.1859), De Genouilly gửi tiếp một báo cáo về Pháp, nói rõ số lính chết lên đến mức đáng sợ, số lính bị bệnh lị quá nhiều. Trong số 800 lính (bộ binh) chỉ còn nhiều nhất là 500 người có thể cầm khí giới, không đủ sức để mở một cuộc hành quân…”. Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp tại Đà Nẵng bị phá sản. Kế hoạch “giáng cho Huế một đòn quyết định” của thực dân Pháp coi như thất bại. De Genouilly cho thay đổi kế hoạch, quyết định đem quân vào đánh Gia Định, vì theo sự nghiên cứu của người Pháp thì “Sài Gòn có triển vọng trở thành trung tâm của một nền thương mại rộng lớn (…). Xứ này giàu sản vật, mọi thứ đều đầy rẫy”. Tấn công Gia Định, thực dân Pháp muốn chiếm một địa bàn thuận lợi, vừa “lập nghiệp và phòng thủ”, vừa “hành binh và lưu thông thương mại dễ dàng”, đồng thời gây sức ép với triều đình Huế bằng cách phong tỏa kinh tế, cắt đường vận chuyển lương thực. Nhìn xa hơn, chiếm được Gia Định, thực dân Pháp sẽ có điều kiện bành trướng nhanh sang Campuchia và xa hơn nữa lên phía Bắc. b. Pháp đánh chiếm các tỉnh Nam kỳ (1859 - 1867) + Đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ (1859 - 1862) Ngày 2-2-1859, sau khi chỉ để lại khoảng một phần ba số quân đóng trụ ở Đà Nẵng, De Genouilly đem 8 tàu chiến với 2.000 quân tiến vào Gia Định. Sáng ngày 10/2/1859, tàu chiến Pháp - Tây Ban Nha đã có mặt ở Vũng Tàu và bắt đầu tập trung bắn phá các pháo đài phòng thủ ở đây để mở đường ngược sông Cần Giờ tiến vào Gia Định. Trong vòng 6 ngày (từ 10/2 đến 15/2), quân Pháp đã triệt phá 12 đồn trên đường tiến quân và cập được sát đến Nhà Bè. Ngày 11.2.1859, đoàn tàu chiến Pháp vào sông Cần Giờ. Chiều 15.2, quân địch kéo đến trước đồn Hữu Bình. Cuộc chiến đấu diễn ra dữ dội suốt đêm. Sáng hôm sau (16.2), 7 tàu chiến Pháp dàn trận cách hai pháo đài chừng 800m, bắn phá và tràn lên bờ chiếm đồn Hữu Bình, tiếp đó dàn trận trước thành Gia Định và cho hai tàu nhỏ vào rạch Thị Nghè thám thính. Ngày 17.2, quân Pháp đổ bộ tấn công thành Gia Định, dùng chất nổ phá thành, đánh thủng cửa Đông, dùng thang cao leo thành. Pháo trên thành bắn xuống tàu địch nhưng không hiệu quả. Địch vào thành hai bên đánh xáp lá cà. Đến trưa, quân ta rút lui, bỏ lại hầu hết súng đạn, thóc gạo và hơn 100 chiến thuyền gỗ trên sông Thị Nghè. Đề đốc Trần Trí, bố chánh Vũ Thực, lãnh binh Tôn Thất Năng lui quân về ụ Tây Thái. Hộ đốc Vũ Duy Ninh và án sát Lê Từ tự vẫn. Trong thành Gia Định lúc này có hơn 2.000 quân với 200 đại bác bằng sắt, bằng đồng, 1 hải phòng hạm, 7 chiến thuyền, 25.000kg thuốc súng, tiền và bạc trị giá tương đương 130.000francs, thực phẩm đủ nuôi 8000 quân trong một năm. Nghe tin Gia định thất thủ, triều đình Huế vẫn chủ trương để đại quân phòng ngự Đà Nẵng, chỉ phái Thượng thư Bộ hộ Tôn Thất Hiệp mang 1.500 quân vào đóng ở Biên Hòa. Quân Pháp tuy đã hạ được thành Gia Định nhưng phải đối phó với những đạo quân “ứng nghĩa” hoạt động sôi nổi ở khắp nơi, đêm ngày phục kích, đột kích, bao vây địch. Nhân dân Gia Định tự thiêu hủy nhà cửa, di tản hết, không hợp tác với địch. Tướng De Genouilly hy vọng ở các thừa sai Thiên Chúa giáo và “nội ứng” của giáo dân, nhưng hình như thực tế đã không diễn ra như vậy: “Xung quanh chúng ta là những làng giáo dân, đáng lẽ họ phải tỏ ra nồng nhiệt đối với chúng ta, nhưng thực ra không làm gì có điều đó (…) Các giáo dân không giúp đỡ chúng ta, họ luôn đứng bên lề, rõ ràng là họ đã có định kiến”. Trong một báo cáo gửi về chính phủ Pháp, De Genouilly viết: “không thể không thừa nhận rằng cuộc chiến tranh với nước này còn khó hơn cuộc chiến tranh với vương quốc Trung Hoa”. Lúc này bộ phận quân Pháp đóng ở Đà Nẵng vẫn đang nguy khốn vì thương vong và dịch bệnh. De Genouilly lại quyết định trở ra Đà Nẵng. Trước khi rời Sài Gòn, y ra lệnh dùng mìn phá thành Gia Định (8.3.1859), đốt sạch các kho lúa gạo, chỉ để lại một lực lượng nhỏ đóng tại đồn Hữu Bình. Tại mặt trận Đà Nẵng, ngày 8.5.1859, bộ binh và thủy binh Pháp tập trung toàn lực đánh vào các đồn Điện Hải, Thạch Giản, Hải Châu và Phúc Minh nhưng cũng không có kết quả, Pháp phải chuyển sang kế hoạch “chinh phục từng gói nhỏ”, thực chất là thú nhận tình trạng sa lầy tại mặt trận này và buộc phải ngừng bắn 3 tháng để thương thuyết. Ngày 7.9.1859, De Genouilly lại hạ lệnh tấn công phòng tuyến quân ta tại Đà Nẵng. Phòng tuyến vỡ, nhưng quân địch phải trả giá đắt: 10 tên chết, 40 tên bị thương, lại thêm bệnh binh sốt rét chất đầy xe cứu thương. Cuộc thương thuyết chưa kết thúc thì tháng 11.1859 đô đốc Page được cử sang thay De Genouilly. Giữa lúc đó, cuộc chiến tranh Trung-Pháp lại bùng nổ, buộc Pháp phải rút lực lượng ở Đà Nẵng và Sài Gòn chuyển lên chiến trường Trung Hoa, chỉ để lại khoảng 1.000 quân ở Gia định (600 lính thủy đánh bộ, 100 lính tập, 200 lính Tây Ban Nha và một hạm đội nhỏ). Như vậy, đến giữa năm 1860, tại Đà Nẵng quân Pháp đã rút hết, còn ở Gia Định địch phải dàn mỏng 1.000 lính còn lại trên một chiến tuyến 10 km từ Gò Cây Mai đến Thị Nghè. Quân Pháp lúc này ở Sài Gòn chỉ khoảng 800 người, đóng quân trong các chùa (“phòng tuyến các chùa”) nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn qua các chùa Khai Tường, Hiếu Trung, Kiến Phước vào đến chùa Cây Mai. Một sĩ quan Pháp viết: “Phòng tuyến của ta [Pháp] không được liên tục mà đứt khúc. Địch hoạt động từng toán nhỏ, luồn qua lùm bụi mà đi vào. Hễ gặp quân ta đi lẻ tẻ thì họ tấn công, thành ra lúc nào cũng có báo động. Ban đêm, quân Việt Nam vào tận trung tâm Sài Gòn đế đốt phá (…) Đại úy lính thủy đánh bộ Barbé đi ngựa tuần tra lọt vào ổ phục kích, bị đâm chết và cắt đầu ở gần chùa Hiền Trung”. Lúc này một cuộc giải phóng đã có thể mở ra, nhưng tướng nhà Nguyễn chỉ huy mặt trận Gia Định là Tôn Thất Hiệp lại chủ trương “án binh bất động” để “làm nản lòng địch”, do vậy thời cơ đánh bật quân xâm lược ra khỏi bờ cõi bị bỏ rơi. GS. Trần Văn Giàu cho rằng: “Năm 1860 cũng là năm Pháp can thiệp vũ trang vào Syrie, xung đột với Thổ Nhĩ Kỳ. Vì thế, Page không hy vọng được tăng viện từ Pháp để tồn tại ở Đà Nẵng, vừa ở Sài Gòn (…) Đáng buồn là cái khó khăn nan giải ấy của quân địch, triều đình Huế không hay biết gì ráo, tất nhiên không lợi dụng được tình thế”. Tháng 3/1860, Nguyễn Tri Phương được điều động từ Đà Nẵng vào chỉ huy mặt trận Gia Định thay Tôn Thất Hiệp. Ông không “chủ hòa” với địch mà chủ trương “công thủ” (vừa đánh vừa giữ), tập trung sức quân dân vào việc xây dựng Đại đồn Chí Hòa. Đại đồn dài 3.000m, ngang 1.000m, chia làm 5 khu, ngăn cách bằng bờ rào gỗ. Thành lũy xây bằng đất sét và đá ong cao 3m50, dày 2m, ngoài thành rào tre, đào hố cắm chông. 150 đại bác các cỡ bắn bằng đạn gang được bố trí trên tường thành. Nhận xét về hệ thống Đại Đồn, tác giả Trần Văn Giàu viết: “Nếu là chiến tranh thời trung cổ với vũ khí thô sơ thì Đại Đồn có thể xem như khá kiên cố, tuy thiếu cao thừa rộng, mặt thì yếu mặt thì mạnh, địch dễ leo vào đánh xuyên hông, đánh bọc hậu (…) Xem địa đồ toàn cuộc, thấy hình thể Đại Đồn giống như cái thân hình đồ sộ của một lực sĩ giang hai cánh tay [hai chiến lũy tả, hữu] ôm Sài Gòn - Chợ Lớn, quyết ném địch xuống sông. Nguyễn Tri Phương tưởng đâu địch không thể bước qua Đại Đồn nổi, cam chịu co rút trong Sài Gòn cho đến ngày phải rút đi như chúng nó đã rút đi khỏi Đà Nẵng hồi năm trước”. Ngày 25.10.1860, chiến tranh ở Trung Hoa kết thúc, quân viễn chinh Pháp rảnh tay trở lại Việt Nam. Lúc này vua Pháp (Napoléon III) đã cử đô đốc Charner thống lĩnh toàn bộ quân đội Pháp ở Viễn Đông, quyết hoàn thành nhanh chóng việc đánh chiếm Việt Nam. Ý định này được chính Charner nhấn mạnh trong một báo cáo: “Nếu chúng ta muốn đứng vững chắc ở Nam Kỳ và tạo ra ở đây một trung tâm buôn bán quan trọng thì ta không thể chỉ chiếm Sài Gòn mà thôi. Quyền lợi của chúng ta đòi hỏi phải bành trướng giao dịch ra toàn Nam Kỳ gồm nhiều tỉnh phì nhiêu nhất và giàu nhất của vương quốc này”. Sau mấy tuần chuẩn bị, ngày 23.2.1861 quân Pháp công phá đại đồn Chí Hòa. Cuộc chiến đấu của quân dân ta diễn ra vô cùng ác liệt trong hai ngày 24 và 25.2. Charner ghi nhận: “Quân địch kháng cự kịch liệt (…) Địch ở sau các bờ thành xô nhào các cây thang được áp vào tường (…), dội nước sôi và ném các vật dẫn lửa từ trên thành xuống. Súng bắn ra dữ dội từ các lỗ trên bờ thành. Họ cố thủ cho đến khi quân xung kích của ta tiến sát mép bờ rào; và khi ta trèo lên được mặt tường thành thì họ mới bỏ chạy tán loạn (…) Quân ta tổn thất khá nhiều: 225 người”. Cuộc giao tranh diễn ra ác liệt. Không trụ nổi trước hỏa lực mạnh hơn của Pháp, Nguyễn Tri Phương phải ra lệnh cho quân lính bỏ đại đồn. Địch chiếm đại đồn, Nguyễn Tri Phương phải cho quân rút về đồn Thuận Kiều. Ngày 28.2, địch tấn công Thuận Kiều, quan quân lại phải rút về Biên Hòa. Ngày 3.3.1861, địch chiếm đóng Trảng Bàng, coi như làm chủ tỉnh thành Gia Định. Sau thất bại này, triều đình Huế cử Nguyễn Bá Nghi vào chỉ huy cuộc kháng chiến. Theo Nguyễn Bá Nghi tình thế đã đến lúc “đánh giữ đều không được” và tâu về triều đình: “trừ một chước hòa, tôi chỉ còn chịu tội”. Vua Tự Đức động viên quân tướng: “phải gắng sức, khéo dùng lời cảm hóa kẻ địch để họ kiêng nể mà nghe ta”. Đáp lại yêu cầu “nghị hòa” của Nguyễn Bá Nghi, Charner đề xuất một hiệp ước 12 khoản, đồng thời chuẩn bị tiến đánh Định Tường. Ngày 1.4.1861, quân địch chia làm hai cánh thủy bộ tấn công hệ thống phòng ngự trên sông và tiến về Mỹ Tho. Các quan tỉnh bỏ trốn hoặc rút vào thành. Ngày 12.4, cánh quân bộ của địch tiến sát thành Mỹ Tho, cánh quân thủy theo cửa sông Tiền tiến vào. Quân ta thiêu hủy kho tàng, rút về hướng Cái Bè, một bộ phận khác chạy về Vĩnh Long. Trên thực tế, cuộc tiến quân đánh chiếm Mỹ Tho (do trung tá Bourdais trực tiếp chỉ huy) diễn ra không đơn giản. Tác giả P.Vial kể: “Chưa có cuộc hành quân nào ở Nam Kỳ lại mệt nhọc và chết chóc nhiều như cuộc hành quân này (…) Số quân lính bị chết vì quá nhọc mệt, vì dịch tả. Viên quan Bourdais rất can đảm bị một quả đạn đại bác làm bay mất đầu”. Trong khi quân địch đang ì ạch kéo xuống Mỹ Tho vì phải đối phó với lực lượng dân quân trên các bờ sông, kênh thì ngót 5000 quân của Nguyễn Bá Nghi vẫn đóng yên ở Biên Hòa, không ứng viện. Về phía địch, Charner bất lực trước sức đề kháng của nhân dân, phải xin từ chức. Đô đốc Bonard được cử sang thay vào cuối tháng 11.1861, thực hiện lệnh của Bộ trưởng Hải quân Pháp là “giữ vững sự đô hộ của chúng ta ở Sài Gòn (…), ở đó chúng ta có thể ở lại lâu dài”. Rút kinh nghiệm thất bại của Charner, Bonard chủ trương chưa đánh sâu vào các làng xã mà khẩn trương đánh chiếm những tỉnh thành do quân triều đình đóng giữ. Kế hoạch đánh Biên Hòa và Vĩnh Long được thực hiện nhằm mở rộng khả năng càn quét, bao vây tiêu diệt các lực lượng nghĩa quân trên địa bàn rộng lớn từ sông Đồng Nai đến sông Hậu Giang. Ngày 14.12.1861, quân Pháp tiến đánh Biên Hòa bằng cả hai con đường thủy bộ, liên tiếp chiếm các căn cứ Gò Công, Trao Trảo và Mỹ Hòa. Tuần phủ Nguyễn Đức Hoan và án sát Lê Khai Cẩn bỏ ngỏ thành với 48 đại bác và 15 thuyền chiến. Khâm sai Nguyễn Bá Nghi đem quân theo đường Bà Rịa chạy ra Bình Thuận. Thừa thắng, địch xuôi dòng Đồng Nai chiếm luôn Bà Rịa (7.2.1862). Tiếp đến, ngày 20.3.1862, quân Pháp tiến đánh thành Vĩnh Long. Hơn 10 chiến thuyền địch áp sát thành Vĩnh Long, các đồn án ngữ bị vỡ. Đêm 23.2.1862, Trương Văn Uyển cho đốt hết kho tàng, dinh thự rồi rút chạy. Sáng hôm sau (24.2.1862) quân Pháp vào thành, thu được 68 cỗ đại bác. Sau khi cho quân đánh tràn ra nhiều nơi, Pháp đã lần lượt chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa). Đầu tháng 5-1862, vua Tự Đức sai quan thông báo cho phía Pháp đề nghị “giảng hòa” của triều đình. Lập tức đô đốc Bonard sai Simon đáp thuyền máy đến Thuận An đưa ra ba yêu sách “nghị hòa” (quan toàn quyền của triều đình vào Sài Gòn thương nghị, bồi thường chiến phí, đưa trước 10 vạn lạng bạc để làm tin). § Trước khi phái bộ Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp lên đường, vua Tự Đức căn dặn: “hãy hành động rất cẩn thận hầu có ngưng chiến càng sớm càng tốt, để làm đầy đủ sứ mệnh Trẫm giao phó”. Khi thương thuyết, “hãy dò lường tình lý, tùy nghi biện bác sao cho họ bình tâm nghĩ lại, giảm được phần nào thì tốt phần ấy, nếu không được thì mới từ ít đến nhiều”. § Sứ bộ bắt đầu ra đi từ Huế ngày 28.5.1862, đến Gia Định ngày 3.6.1862. Ngày 5.6, hiệp ước được ký kết, gồm 12 khoản. Trong năm 1862, khi Pháp xua quân tiến đánh nhiều nơi cũng là lúc phong trào nhân dân chống Pháp dâng cao ở các tỉnh miền Đông Nam kỳ làm cho Pháp hết sức hoang mang lo sợ. Chính lúc đó, triều đình Huế với bản chất hèn nhát của mình đã cử Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ký với Pháp Điều ước ngày 5/6/1862 (Hiệp ước Nhâm Tuất). Thực tế trên chiến trường cho thấy những tháng đầu năm 1862 là thời gian khủng hoảng nặng nề nhất của quân viễn chinh Pháp ở chiến trường Việt Nam. Một mặt, phong trào kháng chiến của nhân dân đang phát triển mạnh đặt quân địch trước những khó khăn nam giải, mặt khác là những tác động do thất bại của Pháp ở Syrie, sa lầy ở Mexico và làn sóng phản đối của nhân dân Pháp. Kể từ đầu tháng 9.1858 đến cuối tháng 3.1862, quân Pháp tuy chiếm được 4 tỉnh thành (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long) nhưng chưa tổ chức được bộ máy cai trị vì luôn phải đối phó với phong trào kháng chiến của nhân dân đang dâng cao, nhất là khoảng cuối năm 1861 đầu năm 1862. Những trung tâm kháng chiến ở Cần Giuộc (do Quản Là chỉ huy), Thủ Dầu Một, Trảng Bàng và Tây Ninh ở phía bắc sông Vàm Cỏ, trung tâm Tháp Mười (do Võ Duy Dương chỉ huy) đã chặn đứng được ý đồ đánh thọc sâu vào vùng nông thôn của địch nhằm bao vây tiêu diệt lực lượng kháng chiến. Giữa lúc đó, triều đình Huế đã chủ động “nghị hòa” làm cho thực dân Pháp ngạc nhiên: “may mắn thay, đang lúc phải đón đợi một tình thế xấu thì Huế lại yêu cầu ký hòa ước”; “Trung tướng hải quân bắc trở về báo cho quan đô đốc rằng người An Nam muốn điều đình (…) là một tin mừng giữa lúc có nhiều lo âu nghiêm trọng”. Trước khi đi đến việc cầu hòa, trong một buổi thiết triều bàn kế sách “đối phó với Tây dương”, một số đình thần cho rằng: “Nước Tây dương kia cùng ta không phải là nước liền láng giềng để có thể thôn tính nhau được. Chuyến này chúng đến chẳng qua cầu lợi thôi”. Khâm sai Nguyễn Bá Nghi sau khi rút mấy ngàn quân về Biên Hòa, cho rằng: “bấy lâu nay ta lạnh nhạt với họ [Pháp], họ bị các nước láng giềng chê cười nên đem quân đánh ta để được hòa”. Một số đình thần khác cho rằng: “thuyền tàu, súng đạn đều là cái sở trường của chúng, đánh nhau với chúng mong cho chúng chóng lui, chưa thấy có cơ tất thắng. Mà lỡ ra có sa sẩy lại thêm gió thổi chim kêu cũng sợ hãi” (ý kiến Trương Quốc Dụng, Trần Văn Thung). Hoặc: “người ta có thể tưởng tượng ra nhiều cách phòng ngự, nhưng sự thật là chúng ta không thể chống nổi những cuộc tấn công của Tây dương” (ý kiến Phan Thanh Giản). Lại có ý kiến xin “không đắp đồn lũy, không thu binh lương nữa”, vì “kẻ địch xét thấy ý ta không thực lại thêm chém cắt hơn” và xin “giảm bớt quân thứ, phái người đi cầu viện nước ngoài” (Nguyễn Bá Nghi, Trần Đình Túc). Vua Tự Đức băn khoăn lực chọn một đối sách thích hợp. Khoảng giữa năm1861, nhà vua phê phán Nguyễn Bá Nghi “chỉ thấy chủ ý giảng hòa để đến nỗi càng thêm khó”, nhưng chỉ một tháng sau đó, vua lại đã “chuẩn cho sai hỏi Nguyễn Bá Nghi tự liệu có thể giảng hòa cho xong công việc (…) thì cứ việc tiến hành cho sớm thành công”. Đã có lúc vua Tự Đức đề xuất những biện pháp cụ thể: “cần phải cùng nhau ra sức, làm giấy tờ đi lại, biện bác vặn bẻ, lấy lòng thành mà cảm hóa, lấy lẽ phải mà bẻ bác đi, cốt cho điều gì họ cũng nghe theo”. Cũng có những ý kiến “chủ trương đánh giữ”, vì “ý của bọn Phú-lang-sa là muốn chiếm đất chứ không muốn hòa đâu. Ta không còn nói đến việc nghị hòa được nữa, phải chuyên một mặt đánh và giữ mà thôi. Sao lại tin lời nói dối của chúng mà mắc mưu chúng” (Nguyễn Tri Phương, Tô Trân, Phạm Hữu Nghị…). Nhưng theo Viện Cơ Mật, “các ý kiến này phần nhiều không thể lấy dùng được, vua đều bỏ đấy”. Khi Nguyễn Tư Giản “dâng sớ thiết tha xin không nên hòa với Tây dương” thì “Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản nói: viên ấy không so sánh sự lý, cho là chúng tôi gây mối lo ngại cho vua cha. Lũ chúng tôi dẫu rất ngu cũng không đến nỗi như thế”. Sứ bộ bắt đầu ra đi từ Huế ngày 28.5.1862, đến Gia Định ngày 3.6.1862, và chỉ hai ngày sau (ngày 5-6) hiệp ước được ký kết. Không có tư liệu phản ánh những chi tiết cụ thể về quá trình đàm phán giữa thực dân Pháp với phái bộ Phan Thanh Giản. Vì vậy cho đến ngày nay người ta vẫn băn khoăn không rõ vì sao chỉ trong hơn một ngày “thương thuyết”, phái bộ nhà Nguyễn đã vội chấp thuận những điều khoản nặng nề như vậy. Có ý kiến cho rằng phía Pháp đã dùng sức mạnh quân sự bức bách đại diện của triều đình Huế. Lại có y kiến cho rằng Phan Thanh Giản “biết rằng cưỡng lại thời thế vẫn đi đến chỗ thất bại mà tổn hại sinh linh nên ký cho xong”. Trọn hiệp ước gồm 12 khoản, nội dung cơ bản được tập trung vào mấy điều khoản sau: Điều 3: Trọn ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn nhường đứt cho Pháp. Người Pháp được quyền lưu thông thương mại trên sông Cửu Long và các nhánh sông này bằng tất cả các loại tàu thuyền, kể cả các chiến thuyền tuần tra trên sông. Điều 10: Tàu ghe ở ba tỉnh miền tây được vào ba tỉnh miền đông buôn bán nếu chịu theo luật lệ của Pháp và phải được báo trước, nếu không sẽ bị bắt, tịch thu và phá hủy. Điều 11: Thành Vĩnh Long do quân đội Pháp đóng giữ và sẽ được trả lại một khi vua An Nam ra lệnh chấm dứt các cuộc nổi loạn đang diễn ra trong các tỉnh Gia Định, Định Tường và những người cầm đầu các cuộc nổi loạn đi khỏi [các tỉnh trên] để trong xứ có an ninh và qui thuận. Như vậy, với điều ước Nhâm Tuất này nhà Nguyễn đã chấp nhận giao 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ và đảo Côn Lôn cho Pháp, cùng với những nhượng bộ khác rất nặng nề như: mở cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho tư bản Pháp tự do buôn bán, bồi thường cho Pháp 4 triệu Phơ-răng chiến phí. Mục đích của triều đình Huế là muốn sớm rảnh tay để đối phó với phong trào đấu tranh của nông dân miền Bắc. Triều đình Huế đã sợ dân hơn sợ giặc ngoại xâm. Hiệp ước Nhâm Tuất là một vết nhơ lịch sử, đánh dấu sự thỏa hiệp và đầu hàng từng bước của triều Nguyễn. Về phía thực dân Pháp, hiệp ước 1862 là một thắng lợi bất ngờ. Người Pháp thực sự “ngạc nhiên về sự dễ dàng của người An Nam, trước kia đã từng bác bỏ các ý định giảng hòa của chúng ta với bao nhiêu bực tức, đột nhiên lại đến yêu cầu một hiệp ước mà điều kiện hình như đắt giá đối với họ”. Trong báo cáo gửi về Pháp (8.9.1862), đô đốc Bonard viết: “cho đến nay, để thực hiện hòa giải, tất cả mọi việc đều được triều đình Huế thi hành trung thực… phải nói rằng tôi chỉ còn biết hài lòng về chính phủ Tự Đức và những người thay mặt họ đã giúp đỡ tôi tại Nam Kỳ để cho hiệp ước được thi hành sớm chừng nào hay chừng ấy”. Theo sử triều Nguyễn, nghe xong các điều khoản hiệp ước Nhâm Tuất, vua Tự Đức trách phái bộ: “Hai người [Phan, Lâm] không chỉ là tội nhân của bản triều mà còn là tội nhân của muôn đời nữa”. Trong bài văn khắc trên bia Khiêm Lăng, khi nhắc lại sự việc, nhà vua trách thêm: “bất đắc dĩ cầu hòa với giặc, sai sứ đi định ước, bậc kỳ nho thạc phụ khảng khái xin đi, không biết vì cớ gì mà lập hòa ước được dễ dàng, đem tất cả thổ địa nhân dân của các triều trước mở mang khó nhọc bỗng chốc bỏ cho giặc hết”. Nhưng sau đó, triều đình cử Phan Thanh Giản làm tổng đốc Vĩnh Long là Lâm Duy Hiệp làm tuần phủ Thuận Khánh để tiện giao thiệp với Pháp. Có ý kiến cho rằng vua Tự Đức trách phái bộ Phan Thanh Giản vì để mất ba tỉnh cũng là để mất luôn đất Gò Công quê ngoại, hy vọng cử cụ Phan vào Vĩnh Long để tiếp tục thương thuyết, may ra chuộc được phần nào. Đã có lúc nhà vua còn định đổi ba tỉnh miền Tây để lấy lại ba tỉnh miền Đông. Và muốn quân Pháp cho chuộc đất (hay cho đổi đất) thì điều trước tiên là triều đình phải ra lệnh bãi binh và khuyên dân không nổi dậy chống Pháp nữa. Sau khi triều đình ký kết hòa ước với Pháp, phong trào kháng chiến của nhân dân càng khó khăn hơn trước. Từ đây nghĩa quân sẽ phải đơn độc đối phó với địch. Quan trọng hơn, hiệp ước đã tạo cơ sở pháp lý cho địch đàn áp nghĩa quân, trong khi triều đình thì ra lệnh bãi binh theo đúng điều ước đã ký kết. Và cũng từ sau hiệp ước Nhâm Tuất 1862, ngọn cờ chống thực dân Pháp xâm lược đã chuyển sang tay nhân dân, lần lượt từ ba tỉnh miền đông sang ba tỉnh miền tây rồi từ Nam ra Bắc, tạo thành một nội dung chủ yếu của lịch sử Việt Nam giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. * * * Sau khi hiệp ước 1862 được phê chuẩn, vua Tự Đức cử một phái bộ sang Pháp, xin vua Pháp (Napoléon III) cho chuộc lại ba tỉnh miền Đông. Sứ bộ gồm Phan Thanh Giản (chánh sứ), Phạm Phú Thứ (phó sứ), Ngụy Khắc Đản (bồi sứ) và hơn 50 tùy tùng. Tháng 11.1863, Napoléon III hứa với phái bộ sẽ cử đại diện (Aubaret) sang Huế để sửa lại hiệp ước 1862. Sau một tháng điều đình (giữa tháng 6 đến giữa tháng 7.1864) Aubaret và Phan Thanh Giản ký bản tạm ước gồm 21 điều khoản: Pháp trả lại cho Tự Đức ba tỉnh miền Đông nhưng vẫn làm chủ Sài Gòn, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho, đồng thời triều đình Huế thừa nhận sự “bảo hộ” của Pháp trên lục tỉnh. Các điều khoản về thương mại, truyền giáo… vẫn giữ nguyên như điều ước 1862. Về thực chất, tạm ước Aubaret - Phan Thanh Giản không lợi hơn, thậm chí nghiêm trọng hơn đối với vận mệnh đất nước so với hiệp ước 1862. Thế nhưng ngay khi đề án tạm ước vừa đệ trình vua Pháp, và Aubaret chưa kịp đến Huế thì thực dân Pháp (ở nước Pháp cũng như ở Nam Kỳ) đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc địa (Chasseloup Laubat) cực lực phản đối, yêu cầu vua Pháp ra lệnh đình chỉ việc triển khai đề án Aubaret. Cuối cùng Napoléon quyết định hủy bỏ tạm ước. Về phía triều đình Huế, sau khi ký tạm ước (15-7-1864), vua Tự Đức cử Phan Thanh Giản làm khâm sai đại thần ở ba tỉnh miền Tây, tiếp tục thi hành lệnh giải pháp quân đội và nghiêm trị những người nổi loạn. + Đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam kỳ (1867) Tháng 8/1863, qua một chuyến du ngoạn và “thăm viếng hữu hảo” ở Campuchia, Pháp đã buộc triều đình Nôrôđôm ký “Hiệp ước hữu nghị và thương mại” để đặt ách đô hộ trên đất nước này. Sau đó, với việc đã cô lập phần còn lại của Lục Tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp tiếp tục lấn lướt và đe dọa triều đình nhà Nguyễn để chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây. Từ tháng 1-1865, được lệnh không thi hành tạm ước Aubaret - Phan Thanh Giản, đô đốc De Lagrandière xúc tiến kế hoạch chiếm nốt ba tỉnh miền Tây. Tháng 10.1866, De Lagrandière cử Vial ra Huế yêu cầu triều đình Huế để cho Pháp cai trị luôn ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, và Pháp sẽ giúp triều đình diệt trừ giặc biển và đình chỉ mọi khoản chiến phí. Tháng 2.1867, một đại diện của De Lagrandière lại ra Huế đòi chiến phí hàng năm theo điều ước 1862 và nhấn mạnh yêu cầu giao quyền cho Pháp ở ba tỉnh miền Tây. Triều đình Huế lúng túng, cuối cùng dành toàn quyền giải quyết vấn đề cho Phan Thanh Giản. Ngày 20/6/1867, lấy cớ triều đình Huế vi phạm Điều ước 1862, ủng hộ nghĩa quân miền Đông chống Pháp, quân Pháp kéo tới bao vây thành Vĩnh Long, đưa thư đòi nộp thành. Đại diện triều đình ở miền Tây là Phan Thanh Giản đã đồng ý nộp thành Vĩnh Long cho Pháp, sau đó Phan Thanh Giản còn ra lệnh cho các quan cầm đầu 2 tỉnh còn lại là An Giang và Hà Tiên cũng phải làm theo. Như vậy, chỉ trong vòng 5 ngày (từ 20-6 đến 24-6-1867) quân Pháp chiếm luôn ba tỉnh miền Tây mà không có một sự kháng cự nào của quân đội triều đình đang đóng ở đây nên không tốn một viên đạn nào. Bất lực trước tình thế, Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử (5-7-1867). Những đề nghị canh tân đất nước của một số quan lại triều đình Triều đình Huế đã mất Nam Kỳ là một sai lầm lớn. Tuy vậy triều đình vẫn không có biện pháp hữu hiệu để giữ 2/3 đất nước còn lại, mà chỉ lo chuộc đất dấy nghiệp ở Gia Định. Triều chính không được sửa sang, chính sách kinh tế - xã hội không hề được thay đổi, việc đối nội đối ngoại cũng chưa có chuyển biến nào đáng kể. Tình hình đất nước nói chung vẫn trì trệ, mâu thuẫn xã hội vẫn ngày càng tăng lên, tổ quốc không có khả năng tự vệ trước họa xâm lăng. Sau khi thực dân Pháp chiếm trọn sáu tỉnh Nam Kỳ (1867), tình hình kinh tế xã hội nước ta càng khủng hoảng nghiêm trọng. Trước nguy cơ quân Pháp mở rộng xâm lược ra cả nước, nhà Nguyễn càng tỏ ra lúng túng trong việc phòng thủ. Suốt 10 năm đối phó với ngoại xâm (1858 - 1867), việc tổ chức, trang bị, huấn luyện quân đội vẫn không có cải tiến gì. Công bằng mà nói, vua Tự Đức đã cho lập thêm nhiều đơn vị “hương binh” ở một số tỉnh, sửa sang các thành lũy từ Bình Thuận trở ra, cử một số võ quan trấn thủ những nơi xung yếu, bố trí thêm đại bác, súng đồng ở cửa Thuận An… Ở Bắc Kỳ, đời sống nhân dân khốn đốn vì luôn bị nạn đói, nạn dịch, bão lụt đe dọa, nhất là từ khi Nha Đê chính bị bãi bỏ (1861). Liên tiếp hai năm 1867, 1868, các tỉnh trung du, đồng bằng và ven biển Bắc Kỳ bị bão lụt lớn, nhân dân xiêu tán. Tình hình tương tự cũng diễn ra ở Quảng Bình, Quảng Trị năm 1870. Kinh tế nông nghiệp sa sút kéo theo sự đình đốn của công thương nghiệp. Nhiều đô thị suy tàn dần, giao thông thương mại đường biển nằm trong tay Chiêu thương cục của nhà Thanh. Những cố gắng bình ổn giá cả và đo lường không còn hiệu quả. Nha Bình chuẩn thành lập theo sáng kiến của Phan Huy Chú chỉ tồn tại mấy năm, rút cục cũng bị bãi bỏ. Vua Tự Đức và triều thần tiếp tục chủ trương “đóng cửa”, khước từ mọi quan hệ giao thương với nước ngoài. Bấy giờ có tàu buôn nước Anh đến cửa Thị Nại (Bình Định) xin thông thương, có sứ thần của Tây Ban Nha đến Huế trình quốc thư (4 -1870), có lãnh sự Phổ ở Hồng Kông liên hệ với Nha Thương bạc xin giao hảo…, nhưng đều bị triều đình bỏ qua không xét hoặc không trả lời. Tình hình tài chính ngày một kiệt quệ do chi phí chiến tranh và bồi thường chiến phí cho thực dân Pháp buộc nhà Nguyễn phải tăng các sắc thuế (1867), bán ruộng công làm ruộng tư (1869), kể cả bán quan mua tước để tăng thu nhập. lại thêm nạn thổ phỉ (từ biên giới phía bắc tràn sang) gây tai họa cho nhân dân Bắc hà. Những đám “giặc khách” Cờ Trắng, Cờ Vàng cùng cướp biển “tàu ô” mặc sức tung hoành khắp thượng du, trung du và ven biển Bắc Kỳ. Vua Tự Đức phải thu nạp tướng Cờ Đen (Lưu Vĩnh Phúc) và cầu viện quân nhà Thanh ở Quảng Đông (lực lượng Phùng Tử Tài), hy vọng giải quyết rối loạn ở Bắc Kỳ. Nắm được tình trạng suy nhược cao độ của triều đình Huế, thực dân Pháp càng xúc tiến ý đồ mở rộng xâm lược ra phía bắc, thậm chí biến vua nhà Nguyễn thành lực lượng hỗ trợ nhằm “đặt Bắc kỳ dưới quyền đô hộ của Pháp, mà chính phủ Pháp không phải tốn một người hay một xu nào”, như lời đô đốc Dupré báo cáo về bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp. Không thể bó tay nhìn đất nước lâm nguy, nhiều sáng kiến đổi mới đất nước được đề xuất lẻ tẻ trước kia trở thành một trào lưu canh tân trong những năm 60 của thế kỷ XIX. Nhiều người trong giới quan lại, sĩ phu ở các địa phương, trong đó có những người từng đi ra nước ngoài quan sát, tiếp xúc, học hỏi những thành tựu khoa học kỹ thuật châu Âu, trở về suy ngẫm trăn trở trước tình hình đất nước. họ mạnh dạn đề xuất những biện pháp khá toàn diện nhằm đổi mới nền kinh tế, chính trị, xã hội, mong thoát khỏi nguy cơ mất nước. Tháng 9-1868, sau khi công cán ở Hồng Kông về, Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế nêu sáng kiến xây dựng hải cảng để “tìm cách mưu lợi ích lâu dài”. Cuối năm đó (11-1868), Đinh Văn Điền mật trình một số sáng kiến khác có hệ thống hơn, gồm ba điểm chính: · Nâng cao hiệu quả chiến đấu của binh lính, · Cho dân gian được học binh thư binh pháp, · Hạn chế sự lệ thuộc chính quyền các đô đốc ở Nam Kỳ bằng cách đặt quan hệ đối ngoại với nước Anh. Đinh Văn Điền còn đề nghị các biện pháp mở mang kinh tế như khai thác khoáng sản, tận dụng ruộng đất bỏ hoang, đóng thuyền máy hơi nước, lập thương quán ở các nước, mời chuyên viên kỹ thuật các nước đến giúp, không để Pháp độc quyền… Năm 1872, Nha Thương bạc (cơ quan đối ngoại của nhà Nguyễn) xin mở các cửa cảng Đà Nẵng, Ba Lạt, Đồ Sơn, áp dụng chính sách “chiêu thương khai cảng”. Triều thần bàn luận sôi nổi, nhưng rút cục đa số đã bác bỏ đề nghị này, cũng như đã bỏ qua các đề nghị canh tân trước đó, cho là “chưa hợp thời thế”. Tiêu biểu cho phong trào cải cách bấy giờ là hệ thống điều trần nổi tiếng của Nguyễn Trường Tộ (1828 - 1871). Ông quê ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Năm 19 tuổi (1847) ông quyết định đi sâu tìm hiểu những thành tựu khoa học châu Âu, bắt đầu bằng những tri thức thu lượm được tại chủng viện Xã Đoài. Sau đó ông tìm cách đi du lịch Hồng Kông, Singapour rồi sang Pháp (1858) lưu học ở Paris hai năm. Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ về nước, trước sau gửi lên triều đình Huế một hệ thống sáng kiến canh tân bao quát mọi lãnh vực. Quan điểm tư tưởng nổi bật của Nguyễn Trường Tộ là sự lên án mạnh mẽ ý thức hệ Khổng giáo lỗi thời mà nhà Nguyễn đang cố sức duy trì. Xuất phát từ quan điểm này, ông đề xuất những biện pháp cải cách cụ thể về các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, tôn giáo, văn hóa giáo dục …. Về nông nghiệp, Nguyễn Trường Tộ nêu rõ sự lạc hậu về kỹ thuật nông nghiệp ở nước ta, đề nghị mở trường nông chính để phổ biến khoa học kỹ thuật nông nghiệp, đi sâu cải tiến kỹ thuật canh tác để tiếp cận những thành tựu thế giới. Ông đặc biệt nhấn mạnh vấn đề trị thủy sông Hồng và vấn đề thủy lợi nói chung, theo nguyên tắc “khơi nước chứ không cản nước”. Nguyễn Trường Tộ đặt niềm tin vào triển vọng công nghiệp hóa đất nước trên cơ sở bốn nguồn lợi lớn (hải lợi, lâm lợi, thổ lợi, nhất là khoáng lợi) một khi được khai thác khoa học bằng những phương tiện cơ giới hiện đại. Muốn vậy, việc đào tạo một đội ngũ nắm vững khoa học kỹ thuật tiên tiến là vấn đề bức xúc. Bản thân ông đã trực tiếp thăm dò và lập bản đồ khoáng sản nước ta. Ông đề nghị học tập kinh nghiệm các nước để phát triển ngành luyện kim, xây dựng các nhà máy để kỹ nghệ hóa mọi nguồn lợi núi rừng, sông biển. Về thương nghiệp, Nguyễn Trường Tộ nhấn mạnh vị trí ưu việt của nước ta trên thương trường quốc tế, vì vậy phải “mở cửa” để lưu thông trong ngoài nước. Triều đình cần nắm vững hoạt động nội, ngoại thương, muasắm tàu thuyền, khuyến khích tư nhân bỏ vốn kinh doanh. Mặt khác cần đắp đường sá, khơi vét sông ngòi, mở mang đô thị để phát triển lưu thông nội địa. Ông phản đối quan điểm cho rằng “mở cửa biển tức là mở cửa đón kẻ cướp vào”, ông chứng minh nguồn lợi ngoại thương to lớn một khi biết cách khai thông đất nước. Để cứu vãn tình hình tài chính nguy ngập, Nguyễn Trường Tộ đề nghị điều chỉnh các sắc thuế nông công thương nghiệp, đo đạc lại ruộng đất, điều tra lại dân số, giải quyết nạn chiếm đoạt, bỏ hoang ruộng đất, nghiêm trị quan lại hào cường tham nhũng. Mạnh dạn hơn, ông đề nghị vay tiền ngân hàng nước ngoài để mở mang kỹ nghệ. Về văn hóa, xã hội, Nguyễn Trường Tộ chủ trương cải cách văn tự trên cơ sở bảo vệ tiếng mẹ đẻ, cấm lưu hành các sách hoang đường, dị đoan, lập viện dục anh, trang trại tế bần, hội từ thiện, cải tạo côn đồ, du đãng, sửa đổi phong tục tập quán, bài trừ tệ nạn xã hội (cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện…), xây dựng nếp sống văn minh. Nguyễn Trường Tộ đặc biệt lưu ý vấn đề giáo dục. Ông đề xuất một chương trình cải cách hoàn chỉnh về giáo dục nhằm xóa bỏ tư tưởng tự mãn và thủ cựu, xây dựng một lối học thiết thực, hiện đại. Bên cạnh tri thức văn học, phải đưa vào nhà trường các môn luật học, y học, sinh ngữ, nông học v.v…, nói chung là những tri thức khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới, phải gắn học với hành nhằm ích quốc lợi dân. Phải kết hợp đào tạo nhân tài cả trong và ngoài nước, cử nhiều người xuất dương du học. Tóm lại, theo ông, giáo dục là quyết định, giáo dục suy đốn thì quốc gia suy đốn. Tóm lại, đứng trước hiện tình đất nước như vậy, ngay trong triều đình ở Huế cũng có nhiều người đưa ra những bản “điều trần” và sáng kiến để canh tân đất nước, tự cường dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Trần Đình Túc, Nguyễn Huy Tế, Đinh Văn Điền, Nguyễn Trường Tộ và cả Viện Thương Bạc, ai ai cũng tâm huyết với vận mệnh đất nước. Điều trần của Nguyễn Trường Tộ gồm 14 tập là một hệ thống những sáng kiến, cải cách trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Song triều Huế và bản thân vua Tự Đức bảo thủ đến mức phản động, khi họ ra các chiếu, dụ khiển trách mọi điều trần và cải cách. § Có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về hai mặt tiến bộ và hạn chế trong những điều trần cải cách của Nguyễn Trường Tộ. Tuy nhiên, đã có sự nhất trí cao khi khẳng định toàn bộ điều trần cũng như bản thân cuộc đời Nguyễn Trường Tộ chứng minh tâm huyết của một trí thức yêu nước chân chính, có vốn tri thức sâu rộng, nhận rõ nhu cầu canh tân đất nước, thiết tha tìm lối thoát giải nguy tổ quốc. § Thế nhưng tại sao nhà Nguyễn không tiếp nhận những điều trần của Nguyễn Trường Tộ? Có ý kiến cho rằng nguyên nhân thất bại của Nguyễn Trường Tộ nằm trong một loạt những mâu thuẫn (mâu thuẫn trong vị thế của ông, trong tình cảm của ông và ngay cả trong chủ trương cải cách của ông). Lại có ý kiến nhận thấy những điều trần của Nguyễn Trường Tộ không có gì xa vời, ảo tưởng, mà phần lớn nằm trong tầm tay của nước ta bấy giờ. Nhưng nhiệt tình và tài năng Nguyễn Trường Tộ đã bị bỏ qua, chỉ vì “điều không may cho Nguyễn Trường Tộ chính là đã ở vào một thời đại với một ông vua nhu nhược, với những quan lại vô trách nhiệm, với một tầng lớp sĩ phu lỗi thời, lạc hậu”. c. Pháp đánh chiếm các tỉnh Bắc kỳ (1873 - 1883) + Đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ nhất (1873 - 1874) Ngay sau khi chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, thực dân Pháp ở Sài Gòn đã tính đến việc theo đường sông Cửu Long tiến sâu vào lục địa châu Á. Nhưng đợt thăm dò sông Cửu Long năm 1866 của Doudart de Lagrée và Francais Garnier đi đến kết luận: Không thể tiến vào Trung Hoa bằng con đường này. Trái lại, muốn đạt mục đích trên thì phải làm chủ con sông Hồng chảy qua Bắc kỳ đổ ra biển Đông, và phải làm nhanh trước khi thực dân Anh nhúng tay vào. Thống đốc Nam kỳ Dupré trực tiếp thực hiện kế hoạch này. Tháng 1.1872, lợi dụng việc triều đình Huế nhờ quân đội Pháp dẹp giặc biển ở Bắc Kỳ, Dupré cử viên trung tá hải quân Senez đem chiến hạm “Bourayne” ra Huế báo tin rồi tiến thẳng ra vịnh Bắc Kỳ. Mười tháng sau, cũng dựa vào lý do trên, tướng D’Arbaud (tạm thay Dupré nghỉ phép) lại cử chiến hạm “Bourayne” ra Bắc, tiến sâu vào nội địa, tìm đường lên Hà Nội. Tuy bị các quan địa phương phản đối, viên trung tá Pháp vẫn lên bộ quan sát Hà Nội và các triền sông phụ cận, và đệ trình một kế hoạch đánh chiếm Bắc Kỳ. Tháng 5.1873, Dupré báo cáo về Pháp rằng: “Việc đánh chiếm Bắc Kỳ là một vấn đề sinh tử cho tương lai thống trị của chúng ta ở Viễn Đông”. Trong việc xâm lược Bắc Kỳ, thực dân pháp ở Sài Gòn liên kết hành động với Jean Dupuis, một lái buôn Pháp đang kinh doanh ở Trung Hoa. Jean Dupuis đã từng đi lính Pháp trong cuộc chiến với nhà Thanh. Sau năm 1860, Dupuis trở thành một lái súng, có thương điếm trên đất Trung Hoa, cung cấp khí giới cho nhà cầm quyền đàn áp cuộc nổi dậy của người theo đạo Hồi. Từ năm 1867, Dupuis dựa vào thế lực của quan nhà Thanh ở Vân Nam, cùng thực dân Pháp ở Sài Gòn bàn tính kế hoạch xâm nhập Bắc Kỳ bằng con đường sông Hồng. Dupuis nhiều lần gây những vụ khiêu khích ở Hà Nội, bắt giữ thuyền bè của dân, tấn công đồn canh của quân ta ven sông Hồng… Tháng 7.1873, thống đốc Nam Kỳ Dupré điện về Pháp: “Bắc Kỳ đã được khai phóng do thắng lợi của Dupuis, tạo hiệu quả sâu rộng trong nền thương mại Anh, Đức, Mỹ. Chiếm Bắc Kỳ là tuyệt đối cần thiết để bảo đảm cho nước pháp con đường thông thương duy nhất này. Tôi không cần viện binh gì hết, tôi giải quyết bằng cách của tôi. Bảo đảm thắng lợi”. Ngay thời điểm đó, triều đình Huế cử một phái bộ vào Sài Gòn yêu cầu thực dân Pháp giải quyết vụ Dupuis. Chớp cơ hội, ngày 11.10.1873, thiếu tá hải quân Francis Garnier ghé qua Đà Nẵng báo tin, triều đình Huế cử ba võ quan đi theo hạm đội Pháp. Ra đến Hà Nội, F. Garnier phối hợp với lực lượng của Dupuis, liên kết với bọn phản động tuyển mộ ngụy quân, đột nhập thành Hà Nội yêu cầu khai phóng sông Hồng. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đòi Dupuis phải rời khỏi sông Hồng và ra thông cáo cho dân chúng biết F. Garnier ra Hà Nội chỉ có nhiệm vụ dàn xếp vấn đề Dupuis. Trước thái độ kiên quyết của Nguyễn Tri Phương, F. Garnier quyết định dùng vũ lực. Ngày 19.11.1873, F. Garnier gửi tối hậu thư cho Nguyễn Tri Phương đòi trao thành, đòi cho Dupuis được tự do xuôi ngược sông Hồng và phải trả lời trước 6 giờ chiều cùng ngày. Nguyễn Tri Phương cương quyết cự tuyệt và tăng cường phòng thủ thành Hà Nội. Mờ sáng ngày 20.11.1873, hơn 200 lính Pháp phối hợp cùng quân của Dupuis đang đóng ở Hà Nội và 11 khẩu đại bác đặt trên hai tàu chiến đang đậu trên sông Hồng, Garnier hạ lệnh nổ súng tấn công thành Hà Nội. Nguyễn Tri Phương lên thành trực tiếp chỉ huy cuộc chiến đấu, không may bị trọng thương. Con trai ông là Nguyễn Lâm tử trận. Quân triều đình tan vỡ, một số bị địch bắt giải vào Sài Gòn, một số chạy ra ngoại thành, rút lên Sơn Tây. Sau khi Pháp chiếm thành đã bắt giữ Nguyễn Tri Phương rồi cố tình chữa vết thương cho Ông để hòng mua chuộc một tướng tài, có uy tín, nhưng Ông đã nhịn ăn đến chết, Ông mất ngày 20.12.1873. Sau khi chiếm thành Hà Nội, thừa cơ triều đình Huế tự giam mình trong thế bị động thương thuyết, quân Pháp nhanh chóng đánh chiếm tiếp các tỉnh thành khác như: Hưng Yên, Hải Dương, Phủ Lý, Ninh Bình và Nam Định. Sáng ngày 21/12/1873, Garnier chỉ huy đoàn quân từ nội thành Hà Nội tiến lên hướng Sơn Tây, khi đến khu vực Cầu Giấy thì bị quân của Hoàng Tá Viêm phối hợp với quân Lưu Vĩnh Phúc chặn đánh. Garnier cùng nhiều binh sĩ Pháp phải bỏ mạng tại Cầu Giấy. Trận Cầu Giấy làm cho quân Pháp ở Hà Nội và các tỉnh Bắc kỳ hoảng sợ đến nỗi muốn bỏ thành chạy. Quân dân nhiều nơi phấn khởi, sẵn sàng đứng lên đánh Pháp. Nhưng một lần nữa triều đình Huế hèn nhát bỏ lỡ thời cơ, không những không dám hiệu triệu quan quân thừa thắng xông lên mà lại ra lệnh cho Hoàng Tá Viêm lui binh, rút quân cờ đen Lưu Vĩnh Phúc lên mạn ngược nhằm để “tạo không khí thuận lợi trong cuộc thương thuyết với Pháp”. Ngày 3.1.1874, Philastre và Nguyễn Văn Tường đến Hà Nội, mở đầu cuộc thương thuyết bằng việc phía Pháp lần lượt trả lại các thành đã chiếm: thành Hải Dương được trao trả ngày 2.1.1874, thành Ninh Bình ngày 8.1, thành Nam Định ngày 10.1 và thành Hà Nội ngày 20.1.1874. Quân Pháp rút về Cửa Cấm chờ lệnh mới. Ngày 4.3.1874, Philastre và Nguyễn Văn Tường trở về Huế gặp vua Tự Đức rồi cùng vào Sài Gòn chuẩn bị ký hiệp ước mới. Kết quả là một điều ước phản bội nữa được ký kết vào ngày 15/3/1874 (Hiệp ước Giáp Tuất) tại Sài Gòn. Ngày 15.3.1874, “Hiệp ước hòa bình và liên minh” được ký kết giữa một bên là Lê Tuấn, Nguyễn Văn Tường (đại diện triều đình) và một bên là Dupré (đại diện chính phủ Pháp) Hiệp ước gồm 22 điều khoản với những nội dung cơ bản như sau: hiệp ước mới thay thế hiệp ước Nhâm Tuất (1862), thực chất là không bàn việc sửa đổi hiệp ước cũ nữa và hợp thức luôn việc Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây. Từ đây, triều đình Huế chính thức thừa nhận chính quyền của Pháp ở Nam Kỳ, không ký hiệp ước thương mại với các nước khác, giáo sĩ đạo Thiên Chúa được phép đi lại hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam, mở cửa sông Hồng, cửa Thị Nại, Hải Phòng, Hà Nội cho Pháp buôn bán và đặt lãnh sự. Ngoài ra triều Nguyễn phải truy bắt và giải nộp cho Pháp những người nổi loạn ở Nam Kỳ trốn ra phía Bắc. Hiệp ước 1874 đánh dấu bước mới trong quá trình đầu hàng của triều Nguyễn. Hơn 5 tháng sau, ngày 31.8.1874, thêm một Điều ước Thương mại được ký kết ở Gia Định, gồm 29 khoản, thừa nhận quyền kiểm soát của Pháp trên thị trường Việt Nam: hàng hóa, tàu bè Pháp được bảo đảm đặc quyền, hoạt động xuất nhập cảng (kể cả thu thuế thương chính) do người Pháp chi phối, điều hành… Tóm lại, với Hiệp ước tháng 3.1874 và Thương ước tháng 8.1874, Nam Kỳ được chính thức thừa nhận là thuộc địa của Pháp, phần còn lại của đất nước thì người Pháp được quyền chi phối ngoại giao, nội trị. + Đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ hai (1882 - 1883) Từ sau hiệp ước Giáp Tuất (1874), thực hiện điều khoản “Pháp bảo vệ nhà vua [Nguyễn] chống mọi sự tấn công”, thống đốc Nam kỳ nhiều lần phái sĩ quan, chiến hạm phối hợp với quân triều đình đàn áp các cuộc chống đối, nổi dậy và đánh dẹp cướp biển, lập căn cứ trú quân ở đảo Cát Bà. Trong những năm từ 1874 - 1884, ngoài các cuộc nổi dậy với mưu đồ khác nhau ở Bắc Hà (như cuộc nổi dậy của Tạ Văn Phụng ở Hải Dương - Quảng Yên), phong trào khởi nghĩa cũng lan vào Hà Tĩnh, Quảng Bình, tác động mạnh tới kinh thành Huế, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa do các văn thân ở Nghệ Tĩnh cầm đầu đã nói ở mục trên. Lực lượng nghĩa quân lên tới 20.000 người, đánh chiếm tỉnh thành Hà Tĩnh, bao vây phủ lỵ Diễn Châu, lập căn cứ ở Vinh. Quân triều đình không dẹp nổi, phải dựa vào giáo sĩ Pháp mới đánh tan được nghĩa quân. Trong việc đánh dẹp “giặc khách” (Cờ Vàng), các quan tỉnh Hà Nội cũng phải nhờ đến lãnh sự Pháp giúp sức tiễu phạt. Giặc “tàu ô” quấy phá vùng ven biển Bắc Kỳ, quan tỉnh Hải Dương cũng được lệnh phối hợp với quân Pháp đi tiễu trừ. Nắm được sự suy yếu cực độ của chính quyền nhà Nguyễn, chính phủ cộng hòa Pháp (Đệ tam cộng hòa) quyết định đẩy mạnh cuộc xâm lược toàn bộ nước ta. Những đoạn trong thư Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa gửi Bộ Ngoại giao Pháp hồi tháng 4.1875 thể hiện rõ ý đồ này, đại lược như sau: nước Việt Nam đã suy nhược tự thấy không còn đủ sức cai trị dân mình…, tất phải bị một cường quốc đô hộ. Chúng ta đã chiếm được Nam Kỳ, không thể để cho một thế lực nào khác gây sức ép với Tự Đức. Ta phải tiếp tục [xâm chiếm Việt Nam], nhất quyết không thoái lui, không để mất quyền lợi đã giành được…. Và trên thực tế, năm 1879, Pháp chuẩn bị 3.000 lính, 12 tàu chiến đưa sang Việt Nam đánh chiếm Bắc Kỳ, mặt khác nhân triều đình Huế yêu cầu giúp thêm lực lượng trấn áp các cuộc nổi dậy, thực dân Pháp ở Hà Nội, Hải Phòng lại được dịp tăng quân lên gấp hai lần số quân đồn trú được quy định trong hiệp ước. Tuy “hòa hảo” và dựa vào thực dân Pháp để dẹp loạn, vua Tự Đức vẫn thấy cần thiết nhờ nhà Thanh trợ giúp, ít nhất cũng tạo thế “đối trọng” với Pháp ở Bắc Kỳ. Hơn thế, vua Tự Đức còn cử người đi liên lạc với một số nước châu Âu khác (Tây Ban Nha, Anh, Đức) nhằm kềm chế bớt áp lực của Pháp. Nhưng ý định này không thành, vì đều bị phía Pháp dựa vào các điều khoản trong hiệp ước 1874 để ngăn chặn. Tháng 3/1882, viện cớ triều đình Huế “vi phạm” Điều ước 1884, Thống đốc Nam kỳ phái đại tá Henri Rivière mang 400 quân cùng 2 pháo thuyền ra Bắc. Ngày 26.3.1882, Henri Rivière đem 200 lính cùng hai pháo thuyền tiến ra Bắc Kỳ, lên Hà Nội (2.4.1882), lợi dụng việc tiếp kiến tổng đốc Hoàng Diệu, vào thành quan sát và yêu cầu phá hủy các công trình phòng thủ trong thành. Hoàng Diệu không nao núng, củng cố thành lũy, công sự, xây ụ cản… kiên quyết kháng chiến. Đồng thời ông cấp báo về Huế xin cho lực lượng Hoàng Tá Viêm ở Sơn Tây về phối hợp và liên lạc với các tỉnh viện trợ thêm quân và vũ khí. Nhưng vua Tự Đức lo ngại “thổ phỉ” phương Bắc lại tụ tập nếu cho rút quân Hoàng Tá Viêm về bảo vệ Hà Nội, mặt khác làm như thế sẽ làm cho người Pháp “ngờ vực”. Nhà vua khuyên Hoàng Diệu, Hoàng Tá Viêm đừng làm việc “không phải lúc”, nên bình tĩnh, đừng “rối rít”. Tại Huế, vua Tự Đức sai Nha Thương bạc chất vấn lãnh sự Pháp tại sao kéo quân ra Bắc, và được trả lời: “Hà Nội muốn được yên thì phải giải binh và phá bỏ các công trình phòng ngự”. Giữa tháng 4.1882, Henri Rivière điều động 7 tàu chiến và 2 xuồng máy ở Hải Phòng về Hà Nội. Mờ sáng ngày 25.4.1882, Rivie gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu đòi nộp thành và trình diện. 8 giờ sáng tàu chiến Pháp dàn trận trên sông Hồng nhất loạt bắn vào thành Hà Nội, công phá Cửa Bắc. Đang chiến đấu thì kho thuốc đạn trong thành bốc cháy làm cho quan quân Hoàng Diệu rối loạn. Thừa cơ đó quân Pháp đột nhập thành. Các quan đề đốc, bố chánh, lãnh binh tụt thành bỏ trốn, quân ta tan vỡ. Hoàng Diệu vào Hành cung thảo Di chiếu gửi triều đình rồi dùng khăn lụa treo cổ tự vẫn trong vườn Võ Miếu (dưới chân cột cờ Hà Nội ngày nay). Nhận được chỉ thị từ Paris, Henri Rivière báo cho vua Tự Đức rằng: thành Hà Nội sẽ được trả lại và quân Pháp sẽ cùng triều đình cộng tác giữ thành, chuẩn bị cho cuộc thương thuyết mới. Hoàng Tá Viêm tâu báo về âm mưu của địch “không chiếm hết toàn hạt Bắc Kỳ thì họ không thôi” và xin nhà vua không nên “cứ sa mãi vào thuật của họ”, nhưng ông đã bị vua khiển trách. Giữa lúc đó, sứ thần nhà Thanh (Lý Hồng Chương) đến Huế, ý tưởng cầu cứu nhà Thanh để đối phó với thực dân Pháp bắt đầu biểu hiện mạnh trong một bộ phận triều thần. Nhưng nhà Thanh chỉ muốn nhân cơ hội tìm cách chia phần với Pháp ở Bắc Kỳ. Sau khi quân Pháp hạ thành Hà Nội, các quan chức nhà Thanh ở Lưỡng Quảng, ở cơ quan đối ngoại đều lên tiếng: “Người Pháp đã chú ý sông Hồng, việc Bắc Kỳ Thanh triều cần phải tham dự…, không thể trì hoãn, phải có âm mưu gì ở Việt Nam…”. Trên thực tế, tổng đốc Lưỡng Quảng đã được lệnh cho quân vượt biên giới, đóng ở Bắc Ninh, Hưng Hóa, Quảng Yên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang. Đến cuối năm 1882, số quân Thanh kéo sang Bắc kỳ lên đến 2 vạn người. Tạm ước Thiên Tân (2.12.1883) giữa Pháp và nhà Thanh đã được ký kết trong bối cảnh đó. Tạm ước Thiên Tân xác nhận việc chia Bắc Kỳ làm hai khu vực: nhà Thanh kiểm soát phía tả ngạn sông Hồng và Pháp kiểm soát phía hữu ngạn. Nhưng nội các Pháp đã bác bỏ tạm ước này, vì thực hiện theo đó thì nguồn khoáng sản Bắc Kỳ - trước hết là khu mỏ Hồng Gai - có nguy cơ lọt vào tay thực dân Anh đứng sau các quan chức nhà Thanh. Ngày 12.3.1883, Henri Rivière cho quân chiếm Hồng Gai, đóng quân ở Bãi Cháy để khống chế vùng mỏ và Vịnh Hạ Long. Mấy ngày sau, chiến thuyền Pháp chiếm luôn Quảng Yên và chuẩn bị đánh thành Nam Định. Ngày 26.3.1883, Henri Rivière gửi tối hậu thư cho tổng đốc Nam Định Võ Trọng Bình đòi phá hủy công trình phòng ngự và trình diện. Sáng hôm sau (27.3) chiến thuyền Pháp dàn trên sông Vị Hoàng bắn vào thành, lập lại bài bản đánh thành Hà Nội trước đó ngót một năm. Chiếm xong Nam Định, Henri Rivière trở về Hà Nội giữa lúc hai cánh quân Sơn Tây (của Hoàng Tá Viêm) và Bắc Ninh (của Trương Quang Đản) đã kéo về bao vây. Ngày 19 tháng 5, hơn 500 quân Pháp do Henri Rivière trực tiếp chỉ huy tiến về hướng Hoài Đức. Quân ta mai phục sẵn bên kia Cầu Giấy bố trí trận địa cản địch. Cánh quân địch đi đầu vượt qua Cầu Giấy bị chống trả quyết liệt từ nhiều phía. Cánh quân của Henri Rivière đánh thẳng vào Tiền Thôn hòng tiêu diệt chủ lực của ta cũng bị chặn lại, mấy sĩ quan bị thương. 500 lính Pháp lúng túng tháo lui chen chúc nhau qua cầu, định dùng hỏa lực mạnh (đại bác) giành lại thế chủ động. Lập tức quân ta nổi hiệu xung phong. Ngót 100 lính Pháp chết và bị thương, trong đó có 5 sĩ quan bỏ mạng, kể cả Henri Rivière. d. Đánh chiếm kinh thành Huế (1883 - 1884) Thời gian H. Rivière đang mở rộng địa bàn chiếm đóng ở Bắc Kỳ thì tại Pháp, Nội các Ferry bàn kế hoạch nhanh chóng khuất phục triều đình Huế và ngăn chặn ý đồ của nhà Thanh đối với Bắc Kỳ. Trước mắt, Ferry quyết định tăng quân số và ngân sách cho vấn đề Bắc Kỳ, đồng thời bác bỏ tạm ước Thiên Tân ký với nhà Thanh. Thất bại ở Cầu Giấy cùng cái chết của H. Rivière càng thúc giục chính phủ Pháp thực hiện kế hoạch trên, mở đầu bằng quyết định đánh thẳng vào Huế buộc triều đình Tự Đức đầu hàng, đồng thời cũng là đặt nhà Thanh trước “việc đã rồi”. Giữa lúc đó, vua Tự Đức mất (17.7.1883), triều thần phân hóa thành hai phe “chủ chiến” và “chủ hòa”. Về phía Pháp, đồng thời với những trận đánh quy mô ở Bắc Kỳ sau khi được tăng viện, giữa tháng 8.1883, cao ủy Pháp Harmand ra lệnh cho đô đốc Courbet đưa một hạm đội với 600 quân từ Đà Nẵng kéo ra cửa Thuận An. Ngày 18.8.1883, Courbet gửi tối hậu thư cho vua Hiệp Hòa, đòi giao các pháo đài ở Thuận An trong vòng 2 giờ đồng hồ. Trong lúc vua Hiệp Hòa đang xin đình chiến th | | | | |
Copy đường link dưới đây gửi đến nick yahoo bạn bè! |
|
|