Diễn Đàn Học Sinh Nguyễn Dục-Tam Dân- Phú Ninh- Quảng Nam
Chào mừng bạn đến với diễn đàn học sinh trường THPT Nguyễn Dục- Tam Dân- Phú Ninh- Quảng Nam. Đây là nơi chia sẽ, giao lưu, học hỏi.
Hãy đăng ký thành viên của diễn đàn bạn nhé!
Diễn Đàn Học Sinh Nguyễn Dục-Tam Dân- Phú Ninh- Quảng Nam
Chào mừng bạn đến với diễn đàn học sinh trường THPT Nguyễn Dục- Tam Dân- Phú Ninh- Quảng Nam. Đây là nơi chia sẽ, giao lưu, học hỏi.
Hãy đăng ký thành viên của diễn đàn bạn nhé!
Diễn Đàn Học Sinh Nguyễn Dục-Tam Dân- Phú Ninh- Quảng Nam
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Học Sinh Nguyễn Dục-Tam Dân- Phú Ninh- Quảng Nam

Mái nhà tình bạn
 
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Bài gửiThời gianNgười gửi
LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Empty LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Empty

LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Otcl1010Admin nhắn với » >> Becon_fhd : ...Hôm Nay Là Sinh Nhật Diễm Chúc Diễm Sinh Nhật Vui Vẻ, Học Tốt, Thành Công Trong Cuộc Sống NháAdmin nhắn với Hôm nay, hơn 60 triệu cử tri cả nước đi bầu cử: 7h sáng, trên khắp 63 tỉnh thành, những lá phiếu sẽ bắt đầu được thả vào hòm phiếu. Hơn 60 triệu cử tri cả nước sẽ bầu 500 đại biểu Quốc hội khóa XIII, 3.832 đại biểu HĐND cấp tỉnh, 21.131 đại biểu cấp huyện và 281.491 đại biểu cấp xã nhiệm kỳ 2011-2016.

63 tỉnh, thành phố có 91.438 khu vực bỏ phiếu …
Admin nhắn với » Tất cả các em lớp 12/7 khóa 3: ...Chúc mọi người 1 ngày tốt lànhvuong_club12.7pro nhắn với 5 đặc tính quý giá của dân nhậu...: 5 đặc tính quý giá của dân nhậu
1) Can đảm: Biết rượu độc hại mà vẫn uống.
2) Thật thà: Có bất kỳ chuyện gì trong lòng cũng đem ra... trình bày.
3) Dũng cảm: Chuyện gì cũng sẵn sàng làm, kể cả hái sao trên trời.
4) Giản dị: Đâu đâu cũng là nhà, chỗ nào cũng làm giường ngủ được.
5) Có lòng yêu …
Admin nhắn với » Tất cả các em lớp 12/7 khóa 3: ...Chúc các em lớp 12 chuẩn bị cho kỳ thi TN và ĐH-CĐ thật tốt! Tụi anh luôn bên cạnh mấy em bounce bounce Admin nhắn với » Chiplove: ...Thật lòng anh mong em ấm nồng......girl_pn nhắn với » Vuong_club: I LOVE YOU giả vờ tui nháAdmin nhắn với » Tất cả các mem: ...Hiện nay diễn đàn học sinh Nguyễn Dục đã có thêm mục gởi thông điệp yêu thương cho các thành viên.Admin nhắn với » Tất cả member: ...i love you so muchAdmin nhắn với » Tất cả member: ...Các bạn ơi hè lại về rồi bounce Admin nhắn với » Tất cả member: test thử
LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Otcr1010
Gửi đến :
Nội dung thông điệp


LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1)Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
Thu Feb 24, 2011 12:43 pm
LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Bgavatar_06
LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Bgavatar_01LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Bgavatar_02_newsLICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Bgavatar_03
LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Bgavatar_04_newLICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Bgavatar_06_news
LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Bgavatar_07LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Bgavatar_08_newsLICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Bgavatar_09
[Thành viên] - haitd
Cấp: MEMBER
Cấp: MEMBER
Tổng số bài gửi : 39
Join date : 21/02/2011
Age : 33
Đến từ : tam ky

LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Vide

Bài gửiTiêu đề: LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1)
http://haitd.bolgxinh.com

Nguồn : Http://www.nguyenduc.sos4um.com/t50-topic

Tiêu Đề : LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1)

http://nguyenducpn.tk - Kết Nối Cộng Đồng Nguyễn Dục Online

--------------------------------------------------
LICH SU VIET NAM 1954-1975
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 - 1975)

I. BỐI CẢNH CHUNG CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN
1. Tình hình quốc tế
Trên vũ đài chính trị quốc tế những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ II, một hệ thống xã hội mới xuất hiện với hàng loạt nước dân chủ nhân dân chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội mà Liên Xô là một hình mẫu lớn. Năm 1949 được coi là năm quyết định của quá trình thay đổi căn bản tình hình thế giới sau đại chiến với việc Liên Xô phá vỡ độc quyền hạt nhân của Mỹ, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ra đời. Cán cân so sánh lực lượng trên thế giới nghiêng hẳn về phía các nước chống chủ nghĩa đế quốc.
Bước vào thập kỷ 50, Liên Xô tiếp tục triển khai những “Kế hoạch 5 năm” xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chiến tranh từng đè nặng lên nền kinh tế - xã hội Xô Viết với bao tổn thất về người và của. Nhưng chỉ 7 năm sau, Liên Xô đã đủ sức làm nên “Sự kiện Sputnich” khiến các thế lực đối địch phải sửng sốt. Một khả năng bảo vệ hòa bình thế giới đãxuất hiện trong thực tế. Trong khi đó các nước Đông Âu cũng bước vào thực hiện công cuộc kiến thiết đất nước với những kế hoạch dài hạn để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tháng 11/1957 tại Matxcơva (Liên Xô), Hội nghị Quốc tế 64 Đảng Cộng Sản và Công Nhân đã tổng kết kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, ra tuyên bố hòa bình, củng cố phong trào Cộng Sản Quốc Tế. Thế giới tiến bộ và cách mạng từ cuối thập kỷ 50 đầu thập kỷ 60 bước vào thời kỳ phát triển với thế và lực mới của mình trong đó Liên Xô là người có công đầu trong việc kiến thiết và gìn giữ hòa bình. Nhưng lúc ấy châu Âu đã bị chia làm đôi, cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu, hệ thống xã hội mới ra đời cũng bước vào thời kỳ đối đầu với chủ nghĩa đế quốc.
Cũng sau chiến tranh thế giới lần II, phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ La-tinh phát triển thành cơn bão táp cách mạng, phá vỡ từng mảng thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Những cuộc đấu tranh vũ trang, những lực lượng tiến và cách mạng chiếm ưu thế trong dân tộc, xu hướng độc lập - dân chủ - hòa bình - trung lập… Đó là những nét mới trong tiến trình phát triển của phong trào.
Dù được “Trao trả độc lập” hay đấu tranh giành độc lập, các nước thuộc địa sau khi thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang đều đi theo con đường phi đế quốc; trong số các nước này có một số nước đã đi gần hoặc đi thẳng vào con đường chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc từ năm 1953 bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các nước Việt Nam, Cu Ba là những ngọn cờ đầu trong phong trào giải phóng dân tộc, sau khi giành được độc lập đã tiến thẳng lên CNXH không qua giai đọan phát triển TBCN.
Chiến tranh thế giới qua đi, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, nhiều nước đế quốc, cả thắng trận và bại trận bị tàn phá nghiêm trng, nhưng đế quốc Mỹ lại trở nên giàu có hơn bao giờ hết. Là một trong những nước lớn góp phần quyết định vào thắng lợi của phe Đồng minh trong chiến tranh, lại là nước giàu mạnh nhất sau chiến tranh, Hoa Kỳ đã giương lên ngọn cờ sen đầm quốc tế và muốn áp đặt tự do kiểu Mỹ ở khắp nơi trên thế giới.
Chiến lược toàn cầu của Mỹ phản ánh một tham vọng muốn xác lập sức mạnh của đế quốc Hoa Kỳ trên tất cả mọi khu vực của thế giới. Mục tiêu trong các kế hoạch chiến lược của Mỹ lúc này là:
* Tiêu diệt chủ nghĩa xã hội (trọng tâm là Liên Xô và các nước Đông Âu)
* Dập tắt phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ La-tinh (trọng tâm là Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á và Cu Ba trong khu vực Mỹ La-tinh).
* Lôi kéo, khống chế các nước đồng minh (trọng tâm là Tây Âu - Nhật Bản).
Chiến lược toàn cầu của Mỹ sử dụng 3 phương thức chủ yếu: chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang và thực hiện chủ nghĩa thực mới… Chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang và chạy đua vũ trang tạo ra sự đối đầu giữa hai hệ thống thế giới, Mỹ sẽ lôi kéo các nước phe Mỹ vào cuộc chiến chống Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa; chủ nghĩa thực dân mới sẽ thay thế lối thống trị thuộc địa mà phương Tây nay đã lỗi thời.
Ba chỗ dựa trọng yếu của chiến lược toàn cầu của Mỹ lúc này là: Viện trợ kinh tế - quân sự - xây dựng hệ thóng liên minh phòng thủ - củng cố lực lượng quân sự mạnh. Sau kế hoạch Marshall chi 50 tỷ dollar vào việc phục hồi các nước tư bản, Mỹ tiếp tục đẩy mạnh viện trợ cho các nước, tính bình quân mỗi năm trong thời kỳ 8 năm 1953 - 1960 là 5 tỷ dollar. Trong đó số viện trợ quân sự gần 3 tỷ dollar với tỷ lệ theo ưu tiên cho các khu vực là: Tây Âu 54%, Đông Nam Á và Viễn Đông 24,2%, Trung Cận Đông 14,9%, các nơi khác 6%.
Những khối liên minh song phương và đa phương do Mỹ đứng đầu hoặc bảo trợ lần lượt ra đời như: khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) thành lập năm 1949, khối Đông Nam Á (SEATO) ra đời năm 1954, khối Trung Cận Đông (CENTO) hình thành năm 1955, khối Nam Thái Bình Dương (ANZUC) lập ra năm 1951… Ngoài ra còn các Hiệp ước tay đôi giữa Mỹ và một số nước ở Đông Á, Nam Á, Đông Nam Á. Về lực lượng quân sự, những năm 1953 - 1960 Mỹ cũng đề ra nhiều ý nghĩa chính trị và kinh tế cho Mỹ lúc này. Quân số giảm đi nhưng căn cứ quân sự ở nước ngoài lại được tăng cường. Sau chiến tranh Mỹ có hơn 2.200 căn cứ quân sự có mặt ở khắp các châu lục, 7 hạm đội trải ra khắp các đại dương, phái đoàn quan sự và cố vấn Mỹ hoạt động ở 45 nước trên thế giới, nhiều loại vũ khí trang bị mới được ra đời như máy bay ném bom chiến lược B52, B47, tên lửa vượt đại châu có đầu đạn hạt nhân, tên lửa tầm trung, tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa hạt nhân chiến thuật…
2. Tình hình Việt Nam
Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ đã triển khai chiến lược toàn cầu từ rất sớm, trong đó Việt Nam là một trong những trọng điểm. Việt Nam nằm trong khu vực có tiềm năng lớn về kinh tế vì rất giàu khoáng sản, nguyên nhiên liệu, lại có nguồn nhân lực lao động dồi dào. Việt Nam còn có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự cho cả vùng Đông Nam Á. Đất liền nối với nhiều quốc gia và đi sâu vào tận miền Trung Á. Biển có những đảo và hải cảng không những thuận tiện giao thông, dễ sự dụng tàu thuyền, mà còn có khả năng khống chế cả vùng rộng lớn. Việt Nam lại là tiêu điểm của phong trào giải phóng dân tộc đang sôi sục ở châu Á.
Sau Cách Mạng Tháng Tám khi Việt Nam Dân Cộnng Hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, cục diện chính trị trên bán đảo Đông Dương thay đổi lớn, bất lợi cho chủ nghĩa đế quốc. Đã có sự tập hợp các lực lượng phản cách mạng chống lại lượng cách mạng, nhưng chúng đã không thành công. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi với việc giải phóng nửa nước ở miền Bắc, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam còn là nơi ấp ủ những mưu toan của Mỹ từ lâu. Đầu thập kỷ 50 Mỹ đã thấy “Đông Dương là phần thưởng đặt cho một trò chơi lớn… trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, hàng năm Đông Dương đã đem lại lợi tức khoảng 300 triệu đôla”.
Ngay khi vừa bước vào Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Eisenhower đã tuyên bố giúp Pháp trong chiến tranh Đông Dương là để “ngăn chặn một cách rẻ tiền nhất các sự kiện có thể gây ra những hậu quả khủng khiếp đối với nước nước Mỹ”. Từ tháng 8/1950 Mỹ đã triển khai phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự (MAAG) vào Việt Nam. Từ cuối năm 1950 đến cuối năm 1951, bằng các Hiệp định tay đôi ký với Pháp ở Đông Dương, như “Hiệp nghị phòng thủ chung Đông Dương”, “Kế hoạch hợp tác kinh tế”, “Kế hoạch an ninh chung”, Mỹ đã từng bước can thiệp vào Việt Nam. Những kế hoạch chiến tranh của Pháp ở Đông Dương như “Kế hoạch Rever”, “Kế hoạch Delatte de Tassingy”, “Kế hoạch Dalan”, “Kế hoạch Navarre” đều được Mỹ trực tiếp tham gia chỉ đạo thực hiện. Có thể nói Việt Nam là nơi tập trung quyền lợi sống còn, là đất dụng võ của họ.
Sau Hiệp định Genève 1954, đất nước Việt Nam bị chia làm hai miền. Cuộc chuyển quân tập kết đã làm thay đổi tình hình so sánh lực lượng, từ thế “Cài răng lược” ở phạm vi toàn quốc thành thế “Đối đầu” ở hai miền đất nước. Lực lượng cách mạng đang phát triển thuận lợi trên phạm vi toàn cục, nay tập trung ra miền Bắc, thế và lực lượng cách mạng nhất là ở miền Bắc nhưng vô cùng bất lợi ở miền Nam. Trong khi đó lực lượng Pháp và các phe phái chính trị phản động trên toàn quốc dồn cả về miền Nam, mang theo tâm trạng thua cuộc, hận thù, muốn tìm chỗ dựa mới, đó là cơ hội để Mỹ nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới.
Với những hoạt động xây dựng chủ nghĩa thực dân mới, tấn công đánh phá lực lượng và phong trào cách mạng, trong mấy năm 1954 - 1959 Mỹ - Diệm đã biến miền Nam Việt Nam từ một chiến trường chống chủ nghĩa thực dân thành một chiến trường phản kích lại các lực lượng cách mạng. Âm mưu chiến lược của Mỹ là biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự, một bàn đạp để tấn công miền Bắc và phe xã hội chủ nghĩa từ phía Nam, ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản đang lan tràn xuống vùng Đông Nam Á.
Mỹ đã thi thố ở Việt Nam 4 chiến lược chiến tranh, ứng dụng từ 3 lần thay đổi chiến lược toàn cầu, do 5 đời tổng thống kế tiếp nhau thực hiện từ năm 1953 đến năm 1975. Đó là sự lựa chọn đúng nơi, đúng lúc, đúng đối tượng tiến hành chiến tranh của Mỹ. Chưa bao giờ Mỹ huy động được sức mạnh của cả nước Mỹ cùng các nước phe Mỹ, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự như là trong thời kỳ họ tiến hành chiến tranh Việt Nam. Ý chí và quyết tâm của Mỹ khi đánh Việt Nam không phải chỉ nhằm khuất phục một dân tộc, dập tắt một ngọn lửa đấu tranh vì độc lập tự do, mà còn nhằm đe dọa nhiều nước khác, đồng thời thể nghiệm sức mạnh của Hoa Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XX.
Cách mạng Việt Nam vừa giành thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến 9 năm chống chủ nghĩa thực dân Pháp, nay lại đứng trước kẻ thù mới vừa lớn mạnh vừa đầy tham vọng. Nửa nước ở miền Bắc được giải phóng và có lực lượng cách mạng của cả nước tập trung về. Do đó niềm Bắc có nhiệm vụ phải nhanh chóng hoàn thành nốt những nhiệm vụ còn lại của Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để bước tiếp sang cuộc cách mạng mới, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Nửa nước còn lại ở miền Nam chưa được giải phóng, cách mạng lại bị mất thế lực, quần chúng nhân dân đang tiếp tục bị khủng bố đàn áp. Vì thế miền Nam có nhiệm vụ phải gây dựng lại lực lượng và phong trào cách mạng, tiếp tục cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải phóng miền Nam, giành tự do độc lập.
Hai miền của một đất nước bị cắt tiến hành đồng thời “hai cuộc cách mạng” khác nhau, dưới sự lãnh đạo của một đảng thống nhất là Đảng Lao Động Việt Nam. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ trước mắt là xây dựng miền Bắc vững mạnh toàn diện, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam, miền Bắc là hậu phương to lớn, là chỗ dựa căn bản nhất cho toàn dân tộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có nhiệm vụ trước mắt là đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ và tay sai, miền Nam là tiền tuyến lớn, là chiến trường chính của cuộc kháng chiến.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có ý nghĩa quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của Cùch mạng Việt Nam, trước hết là đối với sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Cuộc đấu tranh chóng Mỹ ở miền Nam có ý nghĩa quyết định trực tiếp đối với việc giải phóng miền Nam giành tự do độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc.
Cả hai miền Nam Bắc có nhiệm vụ chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc để xây dựng một Việt Nam hòa bình - thống nhất - độc lập - dân chủ và giàu mạnh. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ kéo dài hơn 20 năm buộc nhân dân Việt Nam phải chọn con đường cách mạng bạo lực để gạt bỏ mọi trở ngại trên con đường hòa bình - thống nhất Tổ quốc.
Chấp nhận cuộc đụng đầu với Mỹ, người Việt Nam cũng sớm nhận thức được tính chất quyết liệt của cuộc chiến tranh không cân sức này, cùng những thuận lợi khó khăn đối với cuộc chiến đấu chính nghĩa của mình. Sức mạnh tổng hợp của Cách mạng Việt Nam thời kỳ đánh Mỹ, đem đối chọi với sức mạnh Mỹ dựa vào tham vọng và những ưu thế của khoa học kỹ thuật. Thực tế cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam những năm 1954 - 1975 đã cho thấy: không vũ lực nào đè bẹp được một dân tộc thiết tha với độc lập tự do.
II. CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG Ở MIỀN NAM CHỐNG CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC THỰC DÂN MỚI CỦA MỸ NHỮNG NĂM 1954 - 1965
1. Cuộc chiến đấu mới bắt đầu
Từ cuối năm 1954, Mỹ - Diệm ở miền Nam tập trung bình định lực lượng Đại Việt, Quốc Dân Đảng ở miền Trung, lực lượng Liên Tôn Cao - Hòa - Bình ở Nam Bộ. Cùng lúc đó Diệm cho gạt các phần tử thân Pháp, kể cả các tướng lĩnh cao cấp trong quân đội Liên hiệp Pháp. Các cuộc tập hợp dân chúng được bày biện ra như “Trưng cầu dân ý”, “Phế truất Bảo Đại”, “Suy tôn Ngô Tổng thống”… Năm 1956 nhà cầm quyền miền Nam tiếp tục cự tuyệt mọi đề nghị của Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa về việc Hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước như Hiệp định Genève quy định. Được Mỹ khuyến khích và vạch kế hoạch, Diệm đơn phương tổ chức bầu cử Quốc hội, ban hành Hiến pháp riêng rẽ, lập “Nền đệ nhất cộng hòa” ở miền Nam Việt Nam, tuyên bố đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật.
Chính quyền Diệm cũng đẩy mạnh các hoạt động đánh phá Cách mạng miền Nam. Các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” trong thời kỳ đầu từ tháng 2/1955 đến tháng 5/1956 được tiến hành chủ yếu ở các tỉnh khu V nhằm mục đích gây xáo trộn, phát hiện đối thủ, thí nghiệm các phương thức đánh phá cách mạng. Từ nửa sau năm 1956 trở đi giai đoạn 2 của chính sách Tố Cộng được đưa lên thành “Quốc sách” và triển khai ồ ạt trên toàn miền, trọng điểm là ở Nam Bộ.
Mục tiêu của Tố cộng là nhằm tận diệt Cộng sản ở toàn miền Nam cả về con người lẫn tư tưởng theo phương thức “Thà giết nhầm chứ không bỏ sót”, “Tiêu diệt Cộng sản tận gốc, tiêu diệt không thương tiếc, tiêu diệt như trong tình trạng chiến tranh”. Từ năm 1956 - 1959, hàng vạn cán bộ Đảng viên cách mạng đã bị địch truy lùng và khủng bố bắt giết, giam cầm hàng chục vạn quần chúng yêu nước. Nhiều nơi đã trắng cơ sở Đảng, lực lượng cách mạng miền Nam bị tổn thất nặng nề.
Kết hợp với các biện pháp bạo lực, Mỹ - Diệm còn dùng các thủ đoạn lừa mị, mua chuộc bằng các biện pháp kinh tế - xã hội. Những đại dụ “Cải cách điền địa” như dụ số 2 (ngày 8/1/1955), Dụ số 7 (ngày 5/2/1955), Dụ số 57 (ngày 22/10/1956) thực chất đã cướp đi số ruộng đất mà nông dân được cách mạng chia cấp trong kháng chiến, để trả lại cho địa chủ, nhằm xóa bỏ ảnh hưởng của cách mạng trong dân chúng. Việc xây dựng các “Dinh điền”, “Khu trù mật”, “Trại người Thượng” nhằm gom dân, quy khu lập ấp để tập trung khống chế quần chúng, cô lập các lực lượng cách mạng còn lại ở cơ sở. Anh em Diệm - Nhu còn lập ra Đảng “Cần lao nhân vị”, tổ chức “Phong trào cách mạng quốc gia”, lập ra “Thanh niên cộng hòa”, “Phụ nữ liên đới”, có hệ thống từ trung ương tới các địa phương để lôi kéo các tầng lớp dân chúng miền Nam vào những hoạt động chống phá cách mạng. Viện trợ của Mỹ đổ vào miền Nam Việt Nam cho chế độ Diệm ngày càng nhiều, từ năm 1954 đến 1957 đã có hơn 1,1 tỷ dollar dành riêng vào việc củng cố chế độ ngụy.
Ngay từ khi Hiệp định Genève được ký kết, Hồ Chủ tịch đã thông báo tại Hội nghị lần thứ 6 của Đảng: “Tranh lấy hòa bình không phải là một việc dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ, phức tạp”. Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch ngày 22/7/1954 cũng xác định “Đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”. Như vậy từ rất sớm, nhân dân Việt Nam đã chủ động trong việc đón nhận tình hình mới và sớm có quyết tâm mới để thực hiện mục tiêu hòa bình - thống nhất đất nước.
Khi lệnh ngưng bắn của Bộ Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ban ra trên chiến trường toàn quốc (lúa 0 giò ngày 22/7/1954), từ khu V vào tới Nam Bộ, từng đoàn cán bộ chiến sỹ lực lượng vũ trang cách mạng, cán bộ dân - chính - đảng đã nghiêm chỉnh chuyển quân tập kết ra Bắc. Nhưng cũng có nhiều nơi để lại một số lực lượng làm nòng cốt cho cuộc đấu tranh. Ở Nam Bộ có gần 60.000 đảng viên và khu V có 25.000 đảng viên ở lại rút vào hoạt động bí mật.
Trong tháng 8 và 9/1954 ở các địa phương miền Nam bắt đầu có những cuộc mít - tinh và hội thảo mừng hòa, hoan nghên đình chiến, đón chào Hiệp định Genève… Các hoạt động hợp pháp ấy do các lực lượng yêu nước và hòa bình dân chủ tổ chức, nhưng quân đội và cảnh sát của Ngô Đình Diệm đã ngăn cấm và đàn áp. Hành động khủng bố bằng bạo lực ấy khiến cho chính quyền và quân đội Diện sớm bị cô lập và bộc lộ là kẻ phá hoại hòa bình. Lập tức “Phong trào hòa bình” ở Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển ra các đô thị cùng miền thôn quê. Thành ủy Sài Gòn đã nắm lấy phong trào này, xây dựng thành một trong những lực lượng nòng cốt để lãnh đạo đấu tranh.
Để đáp ứng thực tế yêu cầu ấy, Đảng Lao Động Việt Nam đã đề ra hàng loạt văn kiện chỉ đạo hướng dẫn cách mạng miền Nam phát triển. Mở đầu là các Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ 6 (18/7/1954), Nghị quyết Bộ Chính trị (tháng 9/1954), Nghị quyết Bộ chính trị (tháng 6/1956); ở tại chiến trường có các Nghị quyết Hội nghị thành lập Xứ ủy Nam Bộ (tháng 10/1954), Nghị quyết Hội nghị Liên khu ủy Khu V (21/10/1054), “Đề cương cách mạng miền Nam” của đồng chí Lê Duẩn (tháng 8/1956)…
Những nhóm vũ trang tuyên truyền, những đội tự vệ mật xuất hiện ở khu V và Nam Bộ vào đầu năm 1957 đã hỗ trợ cho phong trào quần chúng đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, chống tố cộng đem lại nhiều hiệu quả. Từ nửa cuối năm 1957 các hoạt động vũ trang tuyên truyền ra đời rộ lên như một chuyển biến mới trong phong trào quần chúng cách mạng ở miền Nam. Hầu hết các địa phương đều cố gắng thành lập đội vũ trang và tự trang bị lấy vũ khí. Không tự giới hạn trong những hoạt động tự vệ và hỗ trợ cho đấu tranh chính trị nữa, các lực lượng vũ trang quần chúng đã tiến lên diệt tề trừ gian, diệt ác phá kềm.
Phong trào dần dần phát triển, đến năm 1958 đầu năm 1959 đã lan rộng khắp miền Nam. Ở Đồng bằng sông Cửu Long hoạt động vũ trang tuyên truyền từ đầu năm 1959 nổi lên khá mạnh làm cho bộ máy tề ngụy địch ở đây hoang mang rệu rã. Ở khu V phong trào vũ trang tuyên truyền lan nhanh trong các huyện miền núi phía Tây và đầu năm 1959 chúng đã xuất hiện nhiều hình thức nổi dậy của quần chúng.
Như vậy, sau mấy năm đối phó với những âm mưu thủ đoạn tàn bạo của Mỹ - Diệm, cách mạng miền Nam đã tìm lại con đường cách mạng bạo lực. Đảng ta tại hội nghị BCHTW lần thứ 15 (tháng 1/1959) đã chủ trương: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.
Với sự ra đời của Nghị quyết 15, đường lối và phương hướng đấu tranh giải phóng miền Nam đã được vạch ra một cách rõ ràng. Việc chi viện cho miền Nam từ tháng 2/1959 đã được bàn tính để mở đầu cho quá trình cách mạng miền Nam và kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Tháng 5/1959 tuyến đường vận tải chiến lược Bắc - Nam (đường 559 - đường mòn Hồ Chí Minh) được hình thành để đưa vũ khí, lương thực và người vào các chiến trường ở miền Nam. Được tiếp sức từ miền Bắc, các lực lượng cách mạng miền Nam nhanh chóng phát triển, phong trào đấu tranh được củng cố không ngừng. Cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam chống chế độ Mỹ - Diệm đang chuẩn bị có bước phát triển nhảy vọt.
2. Đồng Khởi - Bước phát triển nhảy vọt đầu tiên của cách mạng miền Nam
Sau khi tuyên bố đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh (ngày 23/3/1959), Ngô Đình Diệm cho ban hành luật số 10 (ngày 6/5/1959) quy định hai hình phạt cho những người chống đối là tử hình và khổ sai chung thân. Tiếp theo là việc chúng cho lập Tòa án quân sự đặc biệt lưu động xét xử những người yêu nước ở các nơi, ban hành luật số 21 về việc dùng máy chém trong thi hành án. Cùng lúc đó tất cả các lực lượng vũ trang của địch ở miền Nam được huy động tối đa vào việc mở hàng trăm cuộc càng quét lùng sục đánh phá, mục tiêu là tấn công các lực lượng cách mạng đang hình thành ở các địa phương. Nhằm tăng cường khả năng ứng phó về quân sự, địch chia miền Nam thành 3 Quân khu, đồng thời triển khai hộ thống gián điệp mật vụ từ trung ương xuống các địa phương. Đối với bộ máy chính quyền cơ sở, chúng chủ trương gián điệp hóa lực lượng tề xã ấp, tăng cường trang bị cho bảo đảm an dân vệ, đẩy mạnh việc quân sự hóa lực lượng thanh niên địa phương… Chế độ ngụy sau mấy năm tạm thời ổn định, nay đã mất ổn định và không thể thống trị như cũ được nữa.
Viện trợ Mỹ cho miền Nam năm 1959 đứng thứ ba trong các nước Đông Nam Á và đứng thứ 7 trong số các nước trên thế giới nhận nhiều viện trợ Mỹ. Lực lượng cố vấn Mỹ được tăng thêm cả về quân số lẫn các phái đoàn. Hệ thống hậu cần, thiết bị chiến trường, đường xá phục vụ cho chiến tranh được xây dựng và mở rộng, xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa xây dựng vào tháng 8/1959 sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh.
Song đã đến lúc không thể xoay chuyển được tình hình đang tiến đến một cơ bão táp cách mạng. Mỹ ngụy có nhiều cố gắng hòng ngăn chặn chiều hướng bất lợi nhưng “sự bất mãn và phẫn nộ” đối với chính quyền Diệm cứ ngày càng tăng không thể kìm chế được. Cách mạng miền Nam tuy còn gặp nhiều khó khăn, tổn thất và chậm đề ra đường lối phương pháp đấu tranh thích hợp, nhưng khi đã có Nghị quyết 15 thì sự chỉ đạo dẫn đường của nó đã đưa cách mạng phát triển nhanh không gì cản nổi. Không một địa phương nào ở miền Nam không chờ đợi những thời cơ thuận lợi để đứng lên chống chế độ Mỹ - Diệm. Bời vì đã đến lúc “ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không còn có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ”.
Ở khu V, từ đầu năm 1959, những cuộc nổi dậy diệt ác phá kìm giành quyền làm chủ đã nổ ra trong các huyện Vĩnh Thạnh (Bình Định), Bác Ái (Bình Thuận). Đó là dấu hiệu của thời cơ cách mạng miền Nam đang đi tới chín muồi cho một phong trào khời nghĩa từng phần.
Ngày 28/8/1959 rừng núi Trà Bồng bừng bừng khí thế quật khởi. Mở đầu là hành động tẩy chay cuộc bầu cử do chính quyền ngụy tổ chức, sau đó từ những xô xát giữa quần chúng và binh lính địch ở xả Trà Phong, phong trào nổi dậy lan ra khắp các xã vùng núi Trà Bồng. Tiếng la hú cùng với cồng chiêng rộn lên gây khí thế, quần chúng nhân dân có cả đơn vị vũ trang 339 và các nhóm vũ trang du kích vừa ra đời kiên quyết nổi dậy diệt ác phá kiềm giành quyền làm chủ. Ủy ban nhân dân tự quản ra đời ở xã Trà Phong, sau đó lần lượt 16 xã của Trà Bồng đều lập chính quyền Nhân dân cách mạng. Từ Trà Bồng, phong trào nổi dậy khởi nghĩa lan nhanh ra khắp miền rừng núi phía Tây Quảng Ngãi. Đến cuối năm 1959 đã có 40 xã của tỉnh này được giải phóng, vùng căn cứ và vùng giải phóng của Quảng Ngãi mở rộng nối liền với Tây Nguyên.
Ngọn lửa Đồng Khởi một khi đã bùng lên thì nó nhanh chóng bén vào cánh đồng cỏ khô toàn miền Nam, nó sẽ bừng bừng cháy lên thiêu đốt chế độ độc tài phát xít. Cuối năm 1959 ở Nam Bộ tình hình cách mạng sôi nổi hẳn lên với chiến thắng Gò Quản Cung (Kiến Phong ngày 26/9/1959), Xẻo Rô (Rạch Giá ngày 24/9/1959). Đầu tháng 12/1959 các tỉnh Trung Nam Bộ (khu VIII) tiếp thu Nghị quyết 15, đề ra kế hoạch lãnh đạo các địa phương nổi dậy khởi nghĩa. Bắt tay vào hành động, đêm mồng 2/1/1960 lãnh đạo tỉnh Bế Tre đã họp khẩn cấp để quyết định: phát động một tuần lễ toàn dân nổi dậy diệt ác phá liềm, giải phóng nông thôn, làm chủ ruộng vườn.
Ngày 17/1/1960 sóng nổi dậy đã cuộc lên ở các xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh của huyện Mỏ Cày tỉnh Bến Tre. Những cơn “sóng thần” của quần chúng nổi dậy tràn qua cù lao Minh, cù lao Bảo, cù lao An Hòa rồi tràn qua toàn Nam Bộ. Từng đợt, từng cao điểm, những cuộc “Đồng Khởi”, “Đồng Khởi nhồi”, “Đồng Khởi bồi” đã dấy lên cùng với bao hận thù quân Mỹ - Diệm.
Từ Nam Bộ, phong trào Đồng Khởi dội trở ra Nam Trung Bộ, Trung Bộ và Tây Nguyên. Đến cuối năm 1960 đã có 2/3 cơ cấu chính quyền địch ở cơ sở bị tan rã. Cùng với sự tan rã của chính quyền ngụy ở cơ sở, hiện tượng đào rã ngũ trong ngụy quân cũng ngày càng phát triển, mâu thẫn phân hóa trong hàng ngũ địch đã dẫn đến đảo chính trong ngụy quyền trung ương ở Sài Gòn khiến Mỹ phải bối rối đối phó.
Phong trào Đồng Khởi đã giành quyền làm chủ cho hàng triệu người dân ở 1.383/2.627 xã toàn miền Nam, có 865 xã trong tổng số 1.193 xã của Nam Bộ và 3.200 thôn trong tổng số 5.721 thôn của vùng núi khu V không còn ngụy quyền. Đến cuối năm 1960 vùng giải phóng được mở rộng trên khắp nông thôn, đồng bằng và rừng núi, với số dân khoảng 5.600.000 người. Lực lượng vũ trang nhân dân từ trong cao trào Đồng Khởi cũng lần lượt ra đời gồm cả bộ đội tập trung của khu (3.034 người), của tỉnh huyện (12.500 người) và dân quân du kích tự vệ (10.000 người).
Ngày 20/12/1960 tại vùng giải phóng xã Tân Lập huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh, đại biểu các giới, các tầng lớp nhân dân miền Nam đã họp thành lập “Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam”. Chương trình hành động 10 điểm của Mặt trận đã đưa lên hàng đầu mục tiêu “Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh, dân tộc, dân chủ”. Mặt trận Giải phóng trở trành người đại diện chân chính, duy nhất của nhân dân miền Nam trong cuộc chiến đấu đang tiếp tục. Cách mạng miền Nam từ đây bước vào thời kỳ mới, thời kỳ dùng chiến tranh giải phóng chống chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ.


Copy đường link dưới đây gửi đến nick yahoo bạn bè!



LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang
* Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc.
* Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết.
* Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình.
-Nếu chèn smilies có vấn đề thì bấm A/a trên phải khung viết bài
Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Học Sinh Nguyễn Dục-Tam Dân- Phú Ninh- Quảng Nam :: Hình ảnh :: Giao lưu _kết bạn-
Skin rip and fix by dothinh-11b6
Copyright © NguyenDucPN.Tk 2009 - 2010
Powered by phpBB2 - GNU General Public License. Host in France. Support by Forumotion.
Xem tốt nhất ở độ phần giải 1280x1024 hoặc lớn hơn và trên trình duyệt Firefox
Get Firefox Now Get Windows Media Player Now

LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Empty  Free forums | © phpBB | Free forum support | Statistics | Liên hệ | Report an abuse   LICH SU VIET NAM 1954-1975 (phan1) Empty

Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Cookies | Thảo luận mới nhất