Diễn Đàn Học Sinh Nguyễn Dục-Tam Dân- Phú Ninh- Quảng Nam
Chào mừng bạn đến với diễn đàn học sinh trường THPT Nguyễn Dục- Tam Dân- Phú Ninh- Quảng Nam. Đây là nơi chia sẽ, giao lưu, học hỏi.
Hãy đăng ký thành viên của diễn đàn bạn nhé!
Diễn Đàn Học Sinh Nguyễn Dục-Tam Dân- Phú Ninh- Quảng Nam
Chào mừng bạn đến với diễn đàn học sinh trường THPT Nguyễn Dục- Tam Dân- Phú Ninh- Quảng Nam. Đây là nơi chia sẽ, giao lưu, học hỏi.
Hãy đăng ký thành viên của diễn đàn bạn nhé!
Diễn Đàn Học Sinh Nguyễn Dục-Tam Dân- Phú Ninh- Quảng Nam
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Học Sinh Nguyễn Dục-Tam Dân- Phú Ninh- Quảng Nam

Mái nhà tình bạn
 
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Bài gửiThời gianNgười gửi
LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Empty LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Empty

LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Otcl1010Admin nhắn với » >> Becon_fhd : ...Hôm Nay Là Sinh Nhật Diễm Chúc Diễm Sinh Nhật Vui Vẻ, Học Tốt, Thành Công Trong Cuộc Sống NháAdmin nhắn với Hôm nay, hơn 60 triệu cử tri cả nước đi bầu cử: 7h sáng, trên khắp 63 tỉnh thành, những lá phiếu sẽ bắt đầu được thả vào hòm phiếu. Hơn 60 triệu cử tri cả nước sẽ bầu 500 đại biểu Quốc hội khóa XIII, 3.832 đại biểu HĐND cấp tỉnh, 21.131 đại biểu cấp huyện và 281.491 đại biểu cấp xã nhiệm kỳ 2011-2016.

63 tỉnh, thành phố có 91.438 khu vực bỏ phiếu …
Admin nhắn với » Tất cả các em lớp 12/7 khóa 3: ...Chúc mọi người 1 ngày tốt lànhvuong_club12.7pro nhắn với 5 đặc tính quý giá của dân nhậu...: 5 đặc tính quý giá của dân nhậu
1) Can đảm: Biết rượu độc hại mà vẫn uống.
2) Thật thà: Có bất kỳ chuyện gì trong lòng cũng đem ra... trình bày.
3) Dũng cảm: Chuyện gì cũng sẵn sàng làm, kể cả hái sao trên trời.
4) Giản dị: Đâu đâu cũng là nhà, chỗ nào cũng làm giường ngủ được.
5) Có lòng yêu …
Admin nhắn với » Tất cả các em lớp 12/7 khóa 3: ...Chúc các em lớp 12 chuẩn bị cho kỳ thi TN và ĐH-CĐ thật tốt! Tụi anh luôn bên cạnh mấy em bounce bounce Admin nhắn với » Chiplove: ...Thật lòng anh mong em ấm nồng......girl_pn nhắn với » Vuong_club: I LOVE YOU giả vờ tui nháAdmin nhắn với » Tất cả các mem: ...Hiện nay diễn đàn học sinh Nguyễn Dục đã có thêm mục gởi thông điệp yêu thương cho các thành viên.Admin nhắn với » Tất cả member: ...i love you so muchAdmin nhắn với » Tất cả member: ...Các bạn ơi hè lại về rồi bounce Admin nhắn với » Tất cả member: test thử
LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Otcr1010
Gửi đến :
Nội dung thông điệp


LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3)Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
Thu Feb 24, 2011 12:48 pm
LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Bgavatar_06
LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Bgavatar_01LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Bgavatar_02_newsLICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Bgavatar_03
LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Bgavatar_04_newLICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Bgavatar_06_news
LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Bgavatar_07LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Bgavatar_08_newsLICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Bgavatar_09
[Thành viên] - haitd
Cấp: MEMBER
Cấp: MEMBER
Tổng số bài gửi : 39
Join date : 21/02/2011
Age : 32
Đến từ : tam ky

LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Vide

Bài gửiTiêu đề: LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3)
http://haitd.bolgxinh.com

Nguồn : Http://www.nguyenduc.sos4um.com/t52-topic

Tiêu Đề : LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3)

http://nguyenducpn.tk - Kết Nối Cộng Đồng Nguyễn Dục Online

--------------------------------------------------
2. Tổng tấn công Mậu Thân năm 1968 - Bước ngoặc thứ hai của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Cùng thời gian này tại miền Nam Việt Nam cũng đang diễn ra quá trình chuẩn bị khác của lực lượng cách mạng nhằm làm cho Mỹ sẽ chịu một thất bại lớn hơn về quân sự đồng thời để tranh thủ thời điểm chính trị của nước Mỹ khi cuộc bầu cử tổng thống sắp diễn ra.
Đảng ta tại Hội nghị Bộ Chính trị họp (tháng 12/1967), sau đó tại Hội nghị BCHTW lần thứ 14 (tháng 1/1968) chủ trương: Tập trung mở những cuộc tấn công quy mô vào tất cả các đô thị, các căn cứ quân sự, kho tàng và các cơ quan của chế độ ngụy miền Nam buộc Mỹ phải nhượng bộ xuống thang chiến tranh. “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàng Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khời nghĩa để giành thắng lợi quyết định”.
Ở miền Nam đến đầu năm 1968 quân giải phóng miền Nam đã có 7 sư đoàn, 15 trung đoàn, 50 tiểu đoàn độc lập; lực lượng vũ trang địa phương cũng có 55 tiểu đoàn, 17 đại đội, 144 trung đội độc lập; dân quân du kích có 300.000 người. Toàn bộ lực lượng ấy vừa bẻ gãy hai cuộc phản công chiến lược mủa khô của liên quânMỹ - ngụy - chư hầu, hiện đã có sẵn thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc và đang đứng chân ở các vị trí chiến lược quan trọng, hừng hực khí thế chiến thắng. Thực lực và khả năng ấy là cơ sở của thế chiến lược tiến công cách mạng trong cuộc tổng công kích sắp tới.
Mặt khác, sau 9 năm tiến hành con đường cách mạng bạo lực, chiến tranh cách mạng miền Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế cả về thực lực lẫn về phương thức và kỹ chiến thuật chiến tranh. Khi đạo quân địch còn hơn 1 triệu người gồn 486.000 binh lính Mỹ, 650.000 binh lính ngụy, 57.800 các nước chư hầu, hệ thống thiết bị chiến trường của chúng còn gần như nguyên vẹn, việc tiến công trên quy mô lớn nhất, nhằm vào chổ địch mạnh nhất đòi hỏi ta phải có sự tính toán có thời gian, không thể vội vàng. Mặc dù trong chỉ đạo, Đảng đã đề ra 3 dự kiến phát triển của tình hình nhưng mọi sự chuẩn bị lâu dài và trực tiếp cho trận đánh này rõ ràng còn chưa đầy đủ.
Đêm 20/1/1968 tiếng súng tấn công của quân giải phóng đã nổ đều trên toàn tuyến đường 9 - Khe Sanh (Quảng Trị). Quân Mỹ ở căn cứ Tà Cơn bỗng nhiên bị rơi vào thế giống như quân Pháp ở Điện Biên Phủ hồi năm 1954, thật là kinh hoàng và ác liệt. Tuy vậy đó chỉ là trận nghi binh rất thành công để giữ yếu tố bất ngờ cho hướng trọng điểm.
Đêm 30 rạng 31/1/1968 cuộc tổng tấn công của quân giải phóng đã nổ ra trên khắp miền Nam, trọng điểm là các đô thị, trong đó Sài Gòn là mục tiêu quan trọng nhất. Tại đây, cuộc tiến công đồng loạt của cuộc vũ trang cách mạng ngay từ phút đầu đã gây cho địch nhiều bất ngờ. Đặc công và biệt động, bộ binh và các lực lượng vũ trang địa phương đã đánh trúng vào tất cả các căn cứ quân sự, sân bay, kho tàng, trạm thông tin, đài phát thanh, các cơ quan đầu não của chế độ ngụy miền Nam, thậm chí chiến sự xảy ra ngay trong Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Cờ Mặt Trận Giải Phóng tung bay ở nhiều nơi trong thành phố cùng lúc đó các thành phố, tỉnh lỵ, quận lỵ, các khu vực có Mỹ - ngụy chiếm đóng đều bị tấn công. Chiến tranh cách mạng thực sự tràn ngập vào các sào huyệt của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam.
Sau đợt tấn công đầu tiên trong ngày Tết Nguyên Đán, các đợt tấn công tháng 5/1968 và tháng 9/1968 không đạt được mục tiêu đã đề ra nhưng nó vẫn làm cho Mỹ - ngụy - chư hầu không thể chủ động đối phó với tình hình và chúng tiếp tục bị tổn thất sinh lực. Trong cuộc tổng tấn công này, ta cũng bị tổn thất với 111.306 cán bộ chiến sỹ hy sinh và bị thương.
Cuộc tổng tấn công Mậu Thân năm 1968 đã làm Mỹ choáng váng. Ngày 1/3/1968 Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mc Manara, một trong các kiến trúc sư của chiến lược chiến tranh Việt Nam thời kỳ này đã phải từ chức vì không tìm thấy lối ra cho cuộc chiến. Ngày 22/3/1968 tướng Westmoreland bị cách chức và triệu hồi về nước. Ngày 25/3/1968 Mỹ đã triệu tập Hội đồng an ninh quốc gia xem xét lại toàn bộ cuộc chiến tranh Việt Nam theo đó hàng loạt quyết định xuống thang chiến tranh đã nhanh chóng được triển khai như:
* Tăng cường quân ngụy về quân số và vũ khí, nâng cao hiệu lực chiến đấu của chúng, bảo đảm ngăn chặn và đẩy lùi các cuộc tấn công của đối phương.
* Ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra.
* Tăng cường 13.500 quân Mỹ vào miền Nam. Gọi 48.500 quân trù bị Mỹ.
* Bỏ chiến lược quân sự “Tìm và diệt” thay bằng chiến lược “Quét và giữ”. Từng bước thực hiện “Phi Mỹ hóa chiến tranh”, giảm dần sự dính líu trên bộ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Ngày 31/3/1968 Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố trên truyền hình toàn Liên bang những quyết định quan trọng bậc nhất của nước Mỹ và của vai trò tổng thống của ông. Đó là những vấn đề về việc ngừng ném bom ở miền Bắc Việt Nam sẽ cử đại biểu đi tìm kiến hòa bình thương lượng với Hà Nội, Mỹ chuyển sang thực hiện: “Phi Mỹ hóa chiến tranh”, quân Sài Gòn sẽ thay quân Mỹ trên toàn chiến trường, sẽ không ra ứng cử tổng thống Mỹ trong nhiệm kỳ tiếp theo.
Nhưng đòn đánh bất ngờ dịp Tết Mậu Thân làm cho quân số địch thương vong quá lớn, thiệt hại vật chất, vật tư chiến tranh rất nặng nề. Chỉ mấy tháng đầu năm 1968 có 150.000 quân bị loại khỏi vòng chiến đấu, 34% dự trữ chiến tranh bị phá hủy. Địch thú nhận trong 6 tháng đầu năm 1968 có 101.400 binh lính chết; bị thương hay mất tích, trong đó có 50.387 lính Mỹ. Tính đến cuối năm 1968 ta loại khỏi vòng chiến đấu 630.000 tên địch, phá hỏng 13.000 xe quân sự, 1.000 tàu xuồng chiến đấu; 700 kho đạn; 100 khẩu pháo các loại; diệt và bức hàng, bức rút 15.000 đồn bót, chi khu.
Như vậy, đối chiếu những quyết định của tổng thống Johnson tháng 3/1968 với những quyết định của ông tháng 3/1965, thì cơ bản là ý chí xâm lược của Mỹ đã bị lung lay, đường lối chiến lược chiến tranh một lần nữa bị đảo lộn, chiến tranh cục bộ đến đây đã kết thúc thất bại.
3. Việt Nam hóa chiến tranh và Liên minh 3 nước Đông Dương chống kẻ thù chung
Nửa cuối năm 1968 nước Mỹ diễn ra sự chuyển giao quyền lực giữa 2 Đảng Dân Chủ và Cộng Hòa, giữa hai thế lực hiếu chiến mà tổng thống đương nhiệm Johnson và tân tổng thống Nixơn là những người đại diện. Đó là lúc nước Mỹ đang khủng hoảng về tinh thần, mắc kẹt trong chiến tranh, cấu xé và chia rẽ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã gây ra căng thẳng gay gắt với nước Mỹ không riêng về mặt kinh tế, quân sự mà cản về xã hội cũng như chính trị.
Trong khi ấy ở chiến trường miền Nam diễn ra sự đảo thế về quân sự giữa 2 bên chiến tranh. Kẻ thù đã lợi dụng những sai lầm, sở hở của ta trong và sau cuộc Tổng tấn công Mậu Thân để phản kích điên cuồng, chiếm đóng nhiều vị trí của ta ở vùng nông thôn. Chương trình bình định cấp tốc triển khai ồ ạt, địch nhanh chóng có trong tay một hệ thống đồn chốt dày đặc khắp miền Nam làm cơ sở ban đầu cho việc thực hiện những âm mưu bình định sắp tới.
Việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cho cách mạng ở miền Nam đến cuối năm 1968 và đầu năm 1969 được triển khai chậm cHạp. Trong khi ấy Mỹ đã chuẩn bị xong chương trình Việt Nam hóa chiến tranh gồm 3 giai đoạn:
* Giai đoạn 1: Chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu trên bộ cho ngụy quân, rút quân chiến đấu trên bộ của Mỹ làm suy yếu lực lượng cách mạng Việt Nam.
* Giai đoạn 2: Chuyển giao nhiệm vụ trên không cho ngụy, làm cho quân ngụy đủ sức đương đầu với lực lượng cách mạng miền Nam, giữ vững được Việt Nam và Đông Dương.
* Giai đoạn 3: Hoàn thành và củng cố “Việt Nam hóa chiến tranh”, lực lượng cách mạng miền Nam suy yếu đi và chiến tranh sẽ tàn lụi.
Giai đọan 1 là giai đoạn khó khăn nhất, cơ bản nhất và có ý nghĩa quyết định. Bởi vì như Nixơn đã trù liệu: “Nếu việc rút quân Mỹ là phản ánh kết quả của Việt Nam hóa chiến tranh thì bình định là mục đích chính của Việt Nam hóa chiến tranh”. Để thực hiện mục tiêu đó, Mỹ ngụy dự tính cần có 3 bước trong vòng 3 năm (từ tháng 6/1969 đến tháng 6/1972):
* Bước 1: Bình định vùng nông dân quan trọng, đẩy chủ lực cách mạng ra xa các đô thị, làm giảm sự tập trung của Quân giải phóng và tăng cường khả năng đối phó của quân ngụy, Mỹ bắt đầu rút quân.
* Bước 2: Bình định tất cả vùng nông thôn, giảm tối đa hoạt động của lực lượng vũ trang cách mạng, nguỵ được tăng cường và mạnh lên đủ sức đối phó với tình hình, Mỹ rút được đại bộ phận lực lượng chiến đấu.
* Bước 3: Hoàn thành bình định toàn miền Nam, lực lượng cách mạng hoạt động không đáng kể ở nội địa, ngụy đảm đương được vai trò của mình, Mỹ rút hết lực lượng chiến đấu ra khỏi miền Nam.
Như vậy, với Việt Nam hóa chiến tranh, quân Mỹ vẫn còn vai trò quan trọng ở chiến trường, là chỗ dựa chủ yếu của quân ngụy, nhưng quân ngụy sẽ phải thay thế và dần dần trở thành lực lượng chủ yếu của chiến tranh. Bình định là một biện pháp chiến lược, là nội dung hoạt động cụ thể của chiến tranh Việt Nam hóa. Mỹ tập trung xây dựng cho ngụy có: nguỵ quân mạnh - ngụy quyền mạnh - bộ máy cảnh sát mạnh - nền kinh tế mạnh, đó là những đảm bảo thành công của Việt Nam hóa chiến tranh; việc mở rộng chương trình bình định là “Chìa khóa thắng lợi”, là con đường dẫn đến những kết quả ấy.
Lúc đầu thành công lớn nhất của Tổng thống Nixơn và ê-kíp của ông là điều chỉnh kịp thời chủ trương vội vàng của Tổng thống Johnson “Phi Mỹ hóa chiến tranh”, thành đường lối “Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh”. Việc rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam sẽ phụ thuộc vào khả năng tự tiến hành chiến tranh của ngụy Nam Việt Nam. Thực tế này cũng góp phần hình thành lên những nguyên tắc căn bản cho một học thuyết mới mang tên “Học thuyết Nixơn”, đó là:
* Ưu tiên tối đa cho việc đề cao sức mạnh của Mỹ.
* Các đồng minh san sẻ trách nhiệm với Mỹ.
* Mỹ sẵn sàng thương lượng hòa bình bất cứ ở đâu.
Đó cũng là những nội dung cơ bản của “Chiến lược toàn cầu” mới của Mỹ trong những năm kể từ 1969. Nói cách khác, miền Nam Việt Nam là nơi thí điểm đầu tiên của chiến lược toàn cầu mới, Việt Nam hóa chiến tranh là Học thuyết Nixơn trong hành động.
Trong thực tế việc rút quân viễn chinh Mỹ ra khỏi Việt Nam là xu thế không thể cưỡng lại được nữa và chính quyền Mỹ buộc phải thực hiện từ tháng 7/1969 (sớm hơn dự kiến trong bước 1 đến tháng 6/1970). Để không gây nên ảnh hưởng đột ngột cho nguỵ, đồng thời thực hiện được việt Nam hóa chiến tranh, Mỹ dùng lối rút quân nhỏ giọt kết hợp với việc xây dựng nhanh cho quân ngụy đủ mạnh thay thế vào các vị trí của Mỹ trên chiến trường miền Nam. Gần 4 năm (từ tháng 7/1969 đến tháng 3/1973) mới triệt thoái xong hơn nửa triệu quân, thời gian ấy đủ để tăng cường đội quân ngụy Nam Việt Nam từ 700.000 (1969) lên 1.100.000 (1971); lực lượng bán vũ trang từ 1.500.000 người lên 2.000.000 người; vũ khí trang bị vào loại mạnh và hiện đại nhất ở Đông Nam Á với hơn 1.100 máy bay chiến đấu các loại; gần 2.000 xe tăng, xe thiết giáp…
Tiếp tục chiến tranh bằng đội quân hùng hậu ấy, Mỹ - ngụy ở miền Nam vẫn cần có 2 yếu tố căn bản tối cần thiết, nền kinh tế ổn định và sự ủng hộ của dân chúng. Viện trợ của Mỹ do đó vẫn giữ vị trí quan trọng số 1 nhưng quá trình này phải tạo ra khả năng tự phát triển cho nền kinh tế. Từ năm 1970 trở đi nhiều biện pháp thúc đẩy nền kinh tế phát triển được thực hiện như tiến hành cơ giới hóa nông nghiệp, tiếp tục thay đổi chính sách ruộng đất bằng “Luật người cày có ruộng”, mở rộng hoạt động công nghiệp, dịch vụ và hoạt động xuất nhập khẩu… Kết quả to lớn của những cố gắng này là miền Nam Việt Nam trở thành địa chỉ đầu tư mới của giới tư bản Mỹ và các nước, mặc dù chiến tranh vẫn tiếp diễn, gánh nặng viện trợ của Mỹ vì thế có thể giảm bớt dần.
Để có sự ủng hộ của dân chúng phải tiếp tục chính sách bình định, nhưng phải đặt chính sách này trong khuôn khổ của cuộc “Chiến tranh giành dân”, coi bình định là biện pháp then chốt của Việt Nam hóa chiến tranh. Cơ quan chỉ đạo bình định của Mỹ (MACCORSS) ra đời trên cơ sở thống nhất tư tưởng, phối hợp hành động của các cơ quan MACV, phân cục tình báo CIA, Toà đại sứ Mỹ. Cơ quan an ninh điều hợp của ngụy cũng được thành lập từ Trung ương đến các địa phương.
Trước sự phát triển phức tạp của chiến tranh từ sau Mậu Thân, quân dân miền Nam dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp bộ Đảng, phải trải qua nhiều khó khăn gian khổ và tổn thất để khắc phục những sai lầm, tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Phương hướng chiến lược của chiến tranh của ta trong giai đoạn này là “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn. Những Nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị tháng 11/1968, tháng 4/1969, Nghị quyết Hội nghị BCHTW (khóa 3) lần thứ 18, 19, 20… là những văn kiện quan trọng của Đảng chỉ đạo chiến tranh Cách mạng Việt Nam, chống Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ để giành thắng lợi quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Ở miền Bắc, để kịp thời cùng miền Nam “Đánh cho Mỹ cút”, sau khi đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, miền Bắc đã tích cực chi viện toàn diện cho miền Nam. Khối lượng hàng hóa vũ khí vận chuyển đi B ngày càng nhiều. Hàng vạn Thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến đã có mặt trên các tuyến vận tải chiến lược và làm đường dẫn xăng dầu từ miền Bắc vào miền Nam. Nhờ đó thực lực cách mạng miền Nam được tăng cường, sức chiến đấu của Quân giải phóng được nâng lên.
Năm 1969 mặc dù chiến trường gặp nhiều khó khăn tổn thất nhưng ta vẫn cố gắng mở các đợt tấn công Xuân và Hè. Mặt khác, vừa cố gắng duy trì hoạt động quân sự ta vừa tăng cường thực lực chính trị bằng việc thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (ngày 6/6/1969). Trong lúc đó tại Hội đàm Paris ta đưa ra “Giải pháp toàn bộ 10 điểm” về việc giải quyết hòa bình vấn đề miền Nam Việt Nam, mở đầu cho cuộc đấu tranh trên bàn hội nghị. Từ đó những sáng kiến thúc đẩy đàm phán do chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Mặt trận giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời đưa ra, cùng với những hoạt động của quân dân ta trên chiến trường, trở thành những đòn tấn công phối hợp rất chặt chẽ với nhau.
Ngày 18/3/1970 Mỹ cho tiến hành cuộc đảo chính lật đổ nền trung lập của Campuchia. Sau đảo chính, Mỹ cố dự lên chế độ Lon Non làm tay sai, tàm cách mở rộng chiến tranh xâm lược sang Campuchia.
Ngày 29/4/1970 Mỹ ngụy Sài Gòn sử dụng 10.000 quân phiêu lưu đánh sang khu vực phía Đông - Bắc Campuchia, giáp với miền Đông Nam Bộ. Nhưng trong những năm 1970 - 1971, sự phối hợp chiến trường 3 nước Đông Dương đã đạt đến đỉnh cao mới.
Tại Hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương ngày 24 và 25/4/1970, Việt Nam - Lào - Campuchia đã ra tuyên bố chung có tính chất cương lĩnh đấu tranh chung và là Hiến chương về quan hệ láng giềng. Các bên cam kết hết lòng ủng hộ lẫn nhau theo yêu cầu của mỗi nước để chống kẻ thù chung giành độc lập, hòa bình, trung lập. Trên cơ sở đó, lực lượng cách mạng 3 nước hình thành một liên minh mới và phối hợp hoạt động ngày càng có hiệu quả.
Từ tháng 6/1970 quân dân miền Nam và lực lượng các mạng Campuchia đã phối hợp đánh Mỹ ngụy Sài Gòn, ngụy Phnôm Pênh, cải thiện rõ rệt tình hình ở miền Nam và Campuchia. Mỹ thú nhận chẳng những “Không tìm được bộ chỉ huy Trung ương Cục miền Nam, chỉ có một phần các kho tiếp tế của đối phương bị phá hủy, mà còn bị loại khỏi vòng chiến đấy 7.450 tên ngụy và 2.765 tên Mỹ và ngụy Phnôm Pênh thì không sao mạnh lên được.
Cuối tháng 6/1970 Quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu hủy bỏ Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, tước bỏ quyền của tổng thống Mỹ tự do leo thang mở rộng chiến tranh. Nội bộ nước Mỹ tiếp tục bị chia rẽ, làn sóng chống chiến tranh ngày một lan rộng, cuối cùng tổng thống Nixon buộc phải cho kết thúc cuộc chiến đấu trên bộ của Mỹ ở Campuchia.
Từ nửa cuối năm 1970 đến nửa đầu năm 1971 cuộc đọ sức giữa Mỹ và các lực lượng thâm Mỹ với quân dân cách mạng 3 nước Đông Dương lại chuyển trọng tâm sang khu vực Nam Lào và khu vực ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia. Địch có 280.000 quân Mỹ, 695.000 quân ngụy Sài Gòn, 120.000 ngụy Phnôm Pênh, 60.000 ngụy Viên Chăn cùng một số lính đánh thuê Thái Lan. Chúng cùng lúc mở 3 hướng tiến công chiến lược bằng 3 cuộc hành quân lớn: Lam Sơn 719, Toàn Thắng 01/71, Quang Trung 4, trong đó hành quân Lam Sơn 719 là quan trọng nhất, vì nó là thử thách quyết định của Việt Nam của Việt Nam hóa chiến tranh.
Tuy nhiên địch sẽ đương đầu với lực lượng cách mạng của cả Đông Dương với quyết tâm phải đánh thắng trận này dù có phải động viên sức người sức của và hy sinh to lớn. Lực lượng vũ trang quân đội nhân dân Vệt Nam có nhiệm vụ tập trung lực lượng, kiên quyết tiêu diệt thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, bảo vệ bằng con đường chi viện cho các tiền tuyến, phối hợp với các chiến trường, với nhân dân các nước Lào và Campuchia anh em, đập tan hành động phiêu lưu quân sự của đế quốc Mỹ và tay sai.
Cuộc chiến đấu của quân dân Đông Dương đã diễn ra vô cùng ác liệt nhưng cũng đầy những chiến công vang dội, đã đập tan mọi âm mưu thủ đọa của địch trong các cuộc hành quân, tiêu diệt nhiều sinh lực của chúng. Trên mặt trận Đường 9 - Nam Lào ta đã tiêu diệt của ngụy 23.000 tên, phá hủy bắn rơi 500 máy bay, thu gần 600 xe quân sự và 150 khẩu pháo. Cũng tại đây lực lượng tinh nhuệ nhất của quân đội Sài Gòn bị đánh bại, vai trò nòng cốt của nguỵ đồi với Việt Nam hoá chiến tranh bị giáng một đòn mạnh mẽ. Phối hợp với đường 9 Nam Lào, các mặt trận khác trên cả ba nước Đông Dương cũng hoạt động mạnh, gây cho địch nhiều tổn thất lớn cả về sinh lực và tinh thần.
Những hoạt động quân sự dồn dập đầu năm 1971 đã tạo ra cơ hội thuận lợi cho phong trào chống phá bình định nông thôn ở miền Nam Việt Nam. Ở Đồng bằng Sông Cửu Long địch mở chiến dịch kéo dài hơn một năm để “Nhổ cỏ U Minh”, nhưng từ mùa mưa năm 1971 quân dân khu IX đã mở chiến dịch phản công chống bình định của địch. Trong khi đó ở Khu VIII quân dân Mỹ Tho cũng đẩy mạnh chiến tranh du kích, phá các kế hoạch bình định của giặc … Số ấp địch kiểm soát năm 1971 so với năm 1970 giảm hơn 2.000 ấp, 70% trong số 117 xã được kiểm tra ở Miền Nam là có cơ sở cách mạng hoạt động. Nhìn chung theo nhận định của Trung ương cục tại Hội nghị tháng 10/1971, “Tình hình nông thôn (Nam Bộ) đã vượt qua thời kỳ khó khăn nghiêm trọng nhất”.
Kết quả đó diễn ra đồng thời với tình hình đô thị bắt đầu chuyển biến nhanh, đến giữa năm 1971 đã làm xuất hiện nhiều hình thức tổ chức công khai hợp pháp chuẩn bị đưa đấu tranh chính trị ở Miền Nam lên một cao trào mới. Sinh viên học sinh chống quân sự hoá học đường, những cuộc xuống đường của: Phong trào phụ nữ đòi quyền sống, Uỷ ban nhân dân tranh thủ hòa bình, Uỷ ban nhân dân đòi quyền sống, nghiệp đoàn 36 chợ đô thành, những cuộc tổng bãi công của 21 nghiệp đoàn chống thuế lương bổng, phong trào chống bắt thanh niên miền Nam Việt Nam đi làm bia đỡ đạn ở Lào và Campuchia… Đó là những trận đấu tranh rung chuyển phố phường và từ đó một “Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình” đã ra đời từ Sài Gòn lan nhanh khắp các thành thị miền Nam.
Thắng lợi to lớn của năm 1971 và khả năng phát triển thuận lợi của cách mạng miền Nam cho phép ta tính toán đến kế hoạch phát triển thế chiến lược tiến công tạo ra bước phát triển nhảy vọt cho cuộc kháng chiến.
4. Năm quyết định 1972 và bước ngoặt Hiệp định Paris
Đón trước thời điểm chính trị của nước Mỹ năm 1972, Đảng ta tại Hội nghị Bộ Chính trị (tháng 5/1971) đã đề ra chủ trương “Kịp thời nắm lấy thời cơ lớn trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường… giành thắng lợi quyết định trong năm 1972 buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua”.
Với quyết tâm giáng cho địch những đòn mạnh ở cả 3 vùng chiến lược ở miền Nam trong năm bẩu cử tổng thống Mỹ, ta chọn đòn tiến công của chủ lực tiến hành đồng thời trên 3 hướng Trị Thiên - Tây Nguyên - Đông Nam Bộ, phải “hành động bất ngờ và giành lấy thắng lợi cao nhất ”.
Cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972 đã được gấp rút chuẩn bị từ cuối năm 1971. Ở miền Bắc trong năm 1971 có 150.000 thanh niên gia nhập quân đội đã đưa vào miền Nam 55.000 cán bộ chiến sĩ cùng khối lượng lớn vũ khí trang bị. Các binh khí kỹ thuật mới gồm cả xe tăng, pháo cơ giới, pháp hạng nặng lần đầu tiên được đưa vào chiến trường. Đường 559 đã có 6 tuyến trục dọc trong đó có tuyến đường kín để vận chuyển hành quân cả đêm và ngày. Nhờ vậy ở chiến trường quân giải phóng từ đầu năm 1972 đã có thể chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô tương đương quân đoàn. Ở các chiến trường ta phối hợp với bạn mở một số cuộc tấn công vào các vị trí địch tại cách đồng Chum, Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia; đồng thời đẩy mạnh các hoạt động chống phá bình định ở miền Nam.
Địch không bất ngờ trước cuộc tấn công năm 1972 của ta nhưng chúng không phán đoán hết khả năng của ta và quy mô cuộc tiến công. Mặc dù Mỹ - Trung Quốc ký thông báo chung Thượng Hải nhưng với “Quyết tâm không có gì thay đổi” kế hoạch tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972 vẫn được ráo riết chuẩn bị. Trưa ngày 30/3/1972 ta bắt đầu nổ súng mở màn thực hiện quyết tâm ấy.
Trên hướng chủ yếu là Trị Thiên, những trận hiệp đồng binh chủng đầu tiên của giải phóng đem lại hiệu quả thật to lớn, chọc thủng tuyến phòng ngự vững chắc của địch ở đường 9. Ngày 2/5/1972 tỉnh Quảng Trị lọt vào tay quân giải phóng và sau đó tại đây diễn ra cuộc chiến 81 ngày đêm vô cùng ác liệt giành giật thành cổ Quảng Trị. Trên các hướng phối hợ, những trận tiến công vừa và nhỏ của quân giải phóng dồn dập ập xuống quân Mỹ - ngụy. Ta đã đánh chiếm và giải phóng nhiều địa bàn ở Tây Nguyên, Đông nam Bộ, đồng bằng khu V. Trong khi đó Đồng bằng sông Cửu Long lại phát triển các chiến dịch tấn công tổng hợp, mở ra triển vọng lớn cho phong trào chống phá bình định tại đây.
Chỉ 2 tháng tiến công, quân dân miền Nam đã tiêu diệt, là bị thương 32.241 tên địch, loại khỏi vòng chiến đấu 294 tên Mỹ, thu và phá hủy 356 khẩu pháo, 48.515 súng bộ binh, 6.679 máy truyền tin, 63 chiến xa M48 và 140 chiến xa M41, 258 xe M113, 131 xe bọc thép khác, 2.423 xe cơ giới, vừa phá vở hệ thống phòng thủ vòng ngoài của địch ta vừa đưa 10 sư đoàn chủ lực quân giải phóng đứng vững trên địa bàn miền Nam, lực lượng vũ trang 3 thứ quân ở miền Nam đã được bố trí lại trong thế vững chắc. Điều đó khiến cho quân ngụy khó lòng đảo ngược được tình thế đang có lợi cho ta, bất lợi cho chúng, đặc biệt là biện pháp chiến lược bình định nông thôn đến năm 1972 cũng không còn hiệu lực như mấy năm đầu Việt Nam hóa chiến tranh, hơn 1.000.000 dân giành được quyền làm chủ, vùng giải phóng mở rộng.
Mỹ bất ngờ với sự chuyển biến nhanh của tình hình và chúng kiên quyết trả đũa cuộc tiến công Xuân - Hè của ta. Đầu tháng 4/1972 Mỹ cho tập trung lực lượng lớn không quân và hải quân gồm 1.400 máy bay chiến đấu; 193 máy bay B52; 65 tàu chiến (bằng 40% máy bay chiến thuật, gần 50% máy bay chiến lược của cả nước Mỹ, 73% tàu chiến của Hạm đội 7), về vùng biển miền Nam và cả các căn cứ ở Thái Lan, phục vụ cho Ngụy phản kích ở miền Nam và gây lại chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.
Từ ngày 9/5/1972 Mỹ cho phong tỏa toàn bộ miền Bắc Việt Nam, đợt đầu là 7.0963 quả thủy lôi và sau đó là hàng ngàn quả thủy lôi khác giăng kín bờ biển, các tuyến vận chuyển đường biển đường sông miền Bắc. Quốc hội Mỹ viện trợ bổ sung khẩn cấp cho ngụy Sài Gòn 3 tỷ dollar. Tổng thống Nixon tuyên bố hoãn cuộc hòa đàm ở Paris.
Mỗi ngày có từ 300 đến 500 lần chiếc máy bay cường kích và từ 9 - 18 lần chiếc B52 ném hàng ngàn tấn bom xuống tất cả các mục tiêu không phân biệt dân sự hay quân sự. Trong cuộc đánh phá đêm 16/4/1972 ở Hải Phòng, B52 của Mỹ đá giết hại hàng trăm người dân và làm bị thương hơn 1.000 người khác. Nhiều loại vũ khí và kỹ thuật mới của chiến tranh không quân Mỹ lần đầu tiên áp dụng trong cuộc chiến tranh này như máy bay cánh cụp cánh xoè F111, bom có đầu dẫm bằng tia lade, tên lửa điều khiển, máy gây nhiễu điện tử… Mỹ hy vọng đây là biện pháp có tính quyết định chứ không còn là biện pháp hỗ trợ như trước đây nữa để bắt đối phương phải khuất phục và chấm dứt chiến tranh theo ý muốn của Mỹ.
Điều bất ngờ là hành động điên cuồng của Mỹ chỉ càng làm cho người Việt Nam thêm căm thù và quyết tâm đánh Mỹ. Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng nhanh theo yêu cầu của mặt trận, cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc đã vươn tới đỉnh cao mới. Hàng trăm máy bay hiện đại của Mỹ đã phải bỏ xác ở khắp nơi trên miền Bắc.
Ngày 16/4/1972 Hà Nội và Hải Phòng bắn rơi 15 máy bay Mỹ (có 1 B52); ngày 19/4/1972 không quân nhân dân Việt Nam dùng máy bay MIC đánh trọng thương tàu khu trục Mỹ ở ngoài khơi Quảng Bình. Luồng hàng vận chuyển ở miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam vẫn thông suốt, không phải bởi một sức mạnh siêu nhiên nào mà ý chí quyết chiến quyết thắng của những con người không chịu bị khuất phục.
Trên mặt trận ngoại giao, theo chủ trương mới của Đảng về đàm phán ở Paris, ngày 8/10/1972 ta chủ động đưa ra dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt nam. Quả nhiên, vấn đề chiến tranh Việt Nam năm 1972 đã trở thành đề tài số một cho cuộc bầu cử tổng thống đang đến gần.
Chính quyền Nixon có tham vọng thắng cử, họ chơi lối đánh lừa cử tri và dư luận rằng bằng cách hứa chấp nhận dự thảo Hiệp định và chuẩn bị ký kết Hiệp định hòa bình. Cuối tháng 10/1972, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công khai trước dư luận về diễn tiến đàm phán và thái độ lật lọng của Mỹ về ký kết Hiệp định hòa bình.
Cùng lúc ấy là sự chẩn bị những phương án đối phó với âm mưu địch muốn giành thắng lợi quân sự sau khi Nixon thắng cử. Tháng 11/1972, các thành phố lớn ở miền Bắc khẩn trương chuẩn bị cho một thử thách mới. Hàng triệu người dân nhanh chóng rời khỏi thành phố, lưới lửa phòng không tầm thấp, tầm trung, tầm cao sẵn sàng đan lên bầu trời, bộ đội ra đa nêu cao khẩu hiệu “Không để Tổ quốc bị bất ngờ”… Hà Nội và Hải Phòng bước vào tháng cuối cùng của năm 1972 trong tư thế người ra trận, bình tĩnh, tự tin và kiên quyết.
Mỹ chủ trương đánh đòn quân sự để ép ta phải nhượng bộ chúng. Ngay sau ngày thắng cửa, Nixon cho đánh phá mạnh ở trong vĩ tuyến 20, ổ ạt tuôn đổ vũ khí và viện trợ cho ngụy đòi ta sửa đổi 120 chỗ trong dự thảo Hiệp định. Ngày 14/12/1972 chính quyền Nixon thông qua kế hoạch mở cuộc tập kích bằng B52 (mật danh là chiến dịch Linebeker II) đánh vào thủ đô Hà Nội.
Đêm 18/12/1972 cuộc tập kích chiến lược của chúng bắt đầu. Địch sử dụng 729 lần chiến B52, 1.900 lần chiếc máy bay cường kích đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Mỏ, Kép, Thái Nguyên trong đó quá nửa là đánh thẳng vào thủ đô Hà Nội. Chúng đánh cả ban ngày lẫn ban đêm, trong đó chúng chủ trương mỗi đêm phải có 3 trận, phải đánh dai dẳng và làm cho đối phương hiểu được sức mạnh không tưởng tượng nối của không quân chiến lược Mỹ.
Bom Mỹ đã giết hại trong 12 ngày đêm ấy 2.368 người dân và làm bị thương 3.526 người. Trận ngày 26/12/1972 chúng sử dụng 129 lần chiếc B52 trong đó có 105 lần chiếc đánh hơn 100 điểm ở Hà Nội, làm hàng trăm người chết, hàng ngàn người khác bị thương, tại phố Khâm Thiên có 300 người bị sát hại, 2.000 ngôi nhà bị phá sập…
Quân dân miền Bắc đã chống trả cuộc tập kích của không quân Mỹ bắt đầu từ 19 giờ 40 phút ngày 18/12/1972 và kép dài suối 12 ngày đêm sau đó. Chưa bao giờ và chưa ở đâu có 1 chiến dịch phòng không như 12 ngày đêm cuối năm 1972 ở miền Bắc; cũng chưa từng có trong lịch sử cảnh tượng B52 của Mỹ cháy rụng đỏ mặt Hồ Gươm. Từ 18/12/1972 đến 24/12/1972 đã có 46 máy bay Mỹ bị hạ, trong đó có 17 B52 và 5 F111, bắt sống 30 giặc lái. Ngày 26/12/1972 chỉ trong 1 giờ chiến đấu hiệp đồng đã hạ 18 máy bay Mỹ, trong số 8 B52 bị bắn rơi có 5 chiếc rơi tại chỗ. Đêm 29/12/1972 Hà Nội đánh trận cuối cùng của chiến dịch và hạ thêm 01 chiếc B52.
Trong 12 ngày đêm ấy đã có 81 máy bay không lực Hoa Kỳ nước xác trên ngọn lửa căm thù sục sôi của nhân dân Việt Nam, trong đó có 34 chiếc B52 và 5 chiếc F111. Tính chung cả cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2, Mỹ đã bị mất thêm 728 máy bay trong đó có 59 chiếc B52, 137 tàu chiến bị bắn cháy, bắn trúng; hàng trăm giặc lái bị bắt sống hoặc thiệt mạng.
Sáng ngày 30/12/1972 Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 và đề nghị nối lại đàm phán ở Paris. Mỹ muốn giáng cho đối phương một đòn quân sự mạnh thì lại gặp một trận “Điện Biên Phủ trên không”; muốn tỏ rõ sức mạnh không thể tưởng tượng nổi của không quân chiến lược Hoa Kỳ thì những biểu tượng của sức mạnh răn đe bị mất uy thế. Tổng thống Nixon vừa tái đắc cử đã bị một trận “phản đòn”, muốn đàm phán trên thế mạnh đã phải trở lại Paris khẩn cấp và chấp nhận tất cả những gì đã chối từ và chấp nhận cả kết quả đàm phán ngoài mong muốn.
Chính trong bối cảnh ấy hội đàm Paris bước vào giai đoạn cuối cùng. Ngày 13/1/1973 kết thúc những đợt gặp riêng, ngày 23/1/1973 Hiệp định được ký tắt, ngày 27/1/1973 Hiệp định được ký chính thức, ngày 28/1/1973 Hiệp định bắt đầu có hiệu lực. Hiệp định có 9 chương với 23 điều khoản ghi nhận sự nhân nhượng Việt - Mỹ nhưng cơ bản là nó phản ánh thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam sau 18 năm chống Mỹ cứu nước.
Như vậy quyền dân tộc cơ bản và quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam được công nhận, Mỹ phải đơn phương rút quân, chấm dứt mọi dính líu quân sự ở miền Nam Việt Nam và cam kết đền bù chiến tranh cho nhân dân Việt Nam. Đó là kết quả của gần 5 năm đấu tranh đàm phán với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn, hàng trăm cuộc mít - tinh ủng hộ Việt Nam, kể từ ngày 19/5/1968 đến ngày 27/1/1973.
Hiệp định Paris được ký kết đã tạo bước ngoặc căn bản cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ta đã “Đánh cho Mỹ cút” và một thời cơ chiến lược đã mở ra cho quân dân ta tiến lên “Đánh cho ngụy nhào” để giải phóng hoàn toàn miền Nam.
5. Từ quyết tâm chiến lược Giải phóng miền Nam đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975
Ngụy rất sợ cái “thế đã báo” và trạng thái 2 chính quyền 2 vùng kiểm soát, do đó dựa vào sự ủng hộ của Mỹ (nhất là sau hội đàm Nixơn - Nguyễn văn Thiệu tại Xen Clêmenté ngày 3/4/1973), chính quyền và quân đội Sài Gòn chủ trương phá hoại Hiệp định Paris tiếp tục Việt Nam hóa chiến tranh. Ngay khi Hiệp định Paris có hiệu lực, ngụy Sài Gòn đã ồ ạt hành quân lấn chiếm thực hiện cái gọi là “Tràn ngập lãnh thổ”. Trong năm 1973 chúng đã sử dụng 2/3 lực lượng chủ lực (120/188 tiểu đoàn) để cùng với quân địa phương mở 11.365 cuộc hành quân lấn chiếm bình định và 349.67 cuộc hành quân cảnh sát.
Quân ngụy đến cuối năm 1973 kể cả “lực lượng dã chiến” và “lực lượng an ninh lãnh thổ” đã có tổng số 710.000 quân máy bay các loại. 1.611 tàu thuyền, tổng số dự trữ vật tư chiến tranh lên tới 1.930.000 tấn. Nhiều kế hoạch hỗn hợp của Mỹ ngụy được hình thành như: kế hoạch Lý Thường Kiệt 1973 - 1975, kế hoạch cộng đồng tái thiết và cộng đồng phát triển địa phương 1973 - 1975, kế hoạch xây dựng quân đội 1974 - 1979, kế hoạch kinh tế hậu chiến 1973 - 1980… Bằng những cách thức đó, Mỹ hy vọng ngụy có đủ khả năng đối phó với tình hình ở miền Nam.
Trong khi đó, sau Hiệp định Paris ta dự kiến diễn biến tình hình miền Nam sẽ có 2 khả năng: giữ được hòa bình và chiến tranh trở lại.Bài toán chiến lược của cách mạng Miền Nam sau Hiệp định Paris đã được tìm ra từ sau khi có Hiệp định Genève trước đó 19 năm. Mặc dù vậy Đảng ta tại Hội nghị BCHTW lần thứ 21 (tháng 7/1973) vẫn phải khẳng định lại rằng: “Con đường cách mạng của miền Nam là con đường cách mạng bạo lực. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công”.
Đến cuối năm 1973 đầu năm 1974, việc trừng trị địch hành quân bình định lấn chiếm đã trở nên phổ biến, nấht là sau khi có lệnh của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam và đánh trả những hành động chiến tranh của ngụy ở bất cứ đâu với hình thức và lực lượng thích đáng. Từ giữa năm 1974 những hoạt động tấn công mạnh mẽ, làm thất bại các hoạt động bình định của địch và đầy chúng vào thế phòng ngự.
Với vai trò là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi, hậu phương miền Bắc từ sau Hiệp định Paris cũng đứng trước những yêu cầu cấp bách về hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, chi viện đáp ứng yêu cầu của chiến tranh cách mạng ở miền Nam trong giai đoạn cuối. Chi viện quốc tế những năm 1973 - 1975 giảm nhanh, vì thế miền Bắc càng phải có trách nhiệm to lớn hơn lúc nào hết đối với miền Nam.
Đến năm 1974 miền Bắc đã đạt và vượt mức năm 1965 và 1971 trên nhiều lĩnh vực, nhờ vậy nền kinh tế - xã hội miền Bắc đã được ổn định. Việc huy động sức người sức của cho tiền tuyến là mối quan tâm lớn của nhân dân miền Bắc.
Những năm 1973 - 1975 đã có gần nửa triệu thanh niên nhập ngũ, năm 1973 - 1974 miền Bắc đã tăng viện cho miền Nam 263.691 cán bộ chiến sỹ lực lượng vũ trang. Hơn 30.000 cán bộ, chiến sĩ, công nhân, thanh niên xung phong đã tăng cường cho việc nâng cấp đường vận tải chiến lược 559, mở rộng từ Tây Trường Sơn sang Đông Trường Sơn. Hàng vạn các loại xe ngày đêm vận chuyển, nối miền Bắc hậu phương với các căn cứ địa ở khu V, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, các quân đoàn chủ lực lần lượt ra đời: QĐ II (17/5/1973), QĐ I (24/10/1973), QĐ IV (20/7/1974), QĐ III (27/3/1975). Các lực lượng quân binh chủng và các lực lượng cơ động trực thuộc bộ được xây dựng. Các hoạt động huấn luyện, diễn tập được tổ chức thường xuyên. Chiến trường miền Nam tăng nhanh thực lực, chuẩn bị bước vào những hoạt động tạo thế, tạo thời cơ.
Những trận đánh của quân giải phóng ở Thượng Đức, Minh Long, Măng Bút, Măng Đen, Đông Xoài… Vào nửa cuối năm 1974 chứng tỏ rằng địch không còn khả năng chiếm giữ và ta có khả năng giải phóng các chi khu, quận lỵ. Những tín hiệu tại nước Mỹ sau khi Nixon từ chức (9/8/1974) càng làm cho ngụy hoang mang rệu rã. Từ tháng 10/1974, các đô thị miền Nam nhất là Sài Gòn đã bùng lên cao trào đấu tranh chính trị. Chế độ Thiệu đòi Thiệu từ chức.
Thời cơ thuận lợi cho việc giải phóng miền Nam kết thúc hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đến. Từ 30/9/1974 đến 8/10/1974 Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 1) đã được triệu tập để hoạch định kế hoạch 2 năm giải phóng miền Nam. Nhiệm vụ trung tâm trước mắt của nhân dân ta ở cả nước lúc này là: “Động viên những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả 2 miền mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân Ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền ở trung ương và các cấp, dành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn toàn Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà”. Với quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976, một kế hoạch chiến lược do Bộ Tổng tham mưu đề ra gồm 2 bước:
* Bước 1 (1975): Mở những cuộc tiến công chiến lược, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng các vị trí chiến lược quan trọng của ta.
* Bước 2 (1976): Tổng công kích, tổng khời nghĩa, giải phóng toàn miền Nam.
Từ ngày 8/12/1974 đến 8/1/1975 Hội nghị Bộ chính trị mở rộng (đợt 2), đã phân tích cụ thể thời cơ lịch sử và khả năng thực tế của ta và địch. Hội nghị nhận định “Cả năm 1975 là thời cơ, đòn tiến công quân sự mạnh tạo nên thời cơ, phong trào chính trị thúc đầy thời cơ chính trị thúc đầy thời cơ… cần phải khẩn trương, phải đánh nhanh hợn, nếu có thời cơ mà không kịp thời phát hiện, bỏ lỡ thì có tội lớn đối với dân tộc” và “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.
Ngay sau đó, chiến thắng Phước Long ngày 6/1/1975 đã kiểm nghiệp trực tiếp những nhận định kết luận của Hội nghị lịch sử này. Với chiến thắng giải phóng hoàn toàn 01 tỉnh đầu tiên của miền Nam, cả nước bước vào mùa Xuân đại thắng.
Với phương châm và tư tưởng chỉ đạo “Mạnh bạo, chắng thắng, chủ động, cơ động, linh hoạt bí mật, bất ngờ”, chiến dịch Tây Nguyên đã được tiến hành mở đầu cho việc thực hiện quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam. Tháng 2/1975 Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên được thành lập, hai sự đoàn Quân Giải Phóng Miền Nam (Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320A) ăn Tết đón xuân Tân Mão ngay tại Tây - Nam thị xã Buôn Mê Thuột.
Lúc đó địch ở cả Sài Gòn lẫn Tây Nguyên đều nhất trí cho rằng, năm 1975 ta đánh mạnh hơn năm 1974 nhưng không như năm 1968 và không bằng năm 1972. Chúng cho rằng ta chưa có khả năng đánh thị xã lớn hoặc đánh thành phố và trọng điểm hoạt động là Nam Bộ, thời gian hoạt động là từ sau Tết Nguyên Đán đến trước mùa mưa sẽ dừng lại nghỉ, do đó địch không cần thay đổi bố trí chiến lược.
Ngày 10/3/1975 trận tấn công đánh chiếm thị xã Buôn Mê Thuột bắt đầu. Sau 33 giờ chiến đấu hiệp đồng binh chủng, trưa ngày 11/3/1975 ta hoàn thành thắng lợi trận đánh. Đòn đánh điểm huyệt ở Buôn Mê Thuột đã đưa địch từ sai lầm này đến sai lầm khác, kéo theo hàng loạt những sụp đổ của địch trên cao nguyên chiến lược này.
Trong cơn “choáng váng và hãi hùng”, ngày 14/3/1975 nguỵ Sài Gòn quyết định rút bỏ Tây Nguyên, từ ngày 16/3 đến ngày 18/3/1975 Quân đoàn II ngụy thực hiện cuộc rút lui chiến lược nhưng bị đuổi đánh tơi bời. Từ ngày 17/3 đến ngày 25/3/1975 ta quét sạch địch và giải phóng hoàn toàn 6 tỉnh Tây Nguyên, sau đó truy đuổi địch và giải phóng các tỉnh duyên hải từ Phú Yên đến Khánh Hòa. Việc kết thúc thắng lợi chiến dịch đầu tiên không những khẳng định khả năng ta giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến, mà còn cho phép ta khẳng định khả năng thực thế giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.
Khi chiến dịch Tây Nguyên đang tiến triển thì một chiến dịch khác được hình thành trên 8 tỉnh miền Trung Trung Bộ. Vừa tạo thế bất ngờ cho chiến dịch tây Nguyên và phối hợp với Mặt trận Tây Nguyên, quân dân Trị Thiên và khu V đã thực hiện chiến dịch Xuân - Hè tiến công vây ép địch ở nhiều nơi trong Quân khu I và vùng chiến thuật I của chúng. Khi địch ở Tây Nguyên rút bỏ vị trí chiếm đóng thì địch ở Quảng Trị cũng có ý đồ co cụm về Huế và Đà Nẵng. Thừa cơ đó quân dân Trị Thiên đẩy mạnh tiến công. Ngày 19/3/1975 ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn Thừa Thiên Huế.
Ngày 21/3/1975 ta bước vào chiến dịch tấn công Huế, địch vội vàng rút bỏ Huế để giữ Đà Nẵng, tướng ngụy Ngô Quang Trưởng choáng váng mất tinh thần xin từ chức, Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu khẩn khoản xin Mỹ chi viện trực tiếp nhưng Tổng thống Mỹ Ford im lặng. Ngày 26/3/1975 ta giải phóng Huế, ngày 19/3/1975 ta tiêu diệt hoàn toàn căn cứ liên hợp Đà Nẵng, gần 10 vạn binh lính ngụy ở đây cùng với lực lượng địch từ các nơi khác dồn về đã bị đánh tan tành.
Cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân Trị Thiên khu V đã phát triển nhanh như vũ bão, quét sạch địch ở các địa phương, giải phóng hoàn toàn một dải miền Trung nối liền với miền Bắc và Tây Nguyên. Thắng lợi to lớn và nhanh chóng ở miền Trung cùng với Tây Nguyên đã cho phép ta chuyển nhanh cuộc tiến công chiến lược sang Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Thời cơ nối tiếp thời cơ, chiến dịch mở ra chiến dịch, Hội nghị Bộ Chính trị ngày 31/3/1975 xác định “Từ giờ phút này trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân dân ta đã bắt đầu”. Các nghị sỹ Mỹ theo dõi tình hình miền Nam quả quyết, đã quá muộn để làm bất cứ việc gì nhằm lật ngược tình thế ở Nam Việt Nam. Ngày 1/4/1975 chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu được chuẩn bị theo tư tưởng chỉ đạo “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” với tốc độ “một ngày bằng 20 năm”. Ngày 14/4/1975 Bộ Chính trị phê chuẩn đề nghị của bộ chỉ huy chiến dịch đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, phương án chiến dịch được thông qua lần cuối.
Như một bức tranh hoành tráng, xe pháo và tàu thuyền đủ loại, bộ đội và dân quân du kích, dân công và Thanh niên xung phong những ngả đường tấp nập…, cả dân tộc từ Bắc chí Nam đang hành quân, hậu phương đang dốc toàn lực ra tiền tuyến, nửa miền Nam vừa được giải phóng cũng góp sức vào chuẩn bị giải phóng nửa còn lại. Đầu tháng 4/1975 Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị cho quốc dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ (B2) hãy “táo bạo đánh các điểm then chốt… khi có thời cơ”.
Ngày 8/4/1975 ném bom Dinh Độc Lập ngày 9/4/1975 đánh Xuân Lộc, ngày 16/4/1975 đập tan phòng tuyến Phan Rang, ngày 17/4/1975 Phnôm Pênh giải phóng, ngày 18/4/1975 Tổng thống Mỹ Ford ra lệnh di tản người Mỹ khỏi Việt Nam, ngày 20/4/1975 Mỹ cuộc Thiệu từ chức, ngày 23/4/1975 Mỹ tuyên bố chiến tranh kết thúc, không thể giúp ngụy Nam Việt Nam, ngày 24/4/1975 Mỹ đề nghị Tổng thống nguỵ Trần Văn Hương đề nghị ngưng bắn… Tất cả các diễn biến dồn dập ấy diễn ra cùng lúc với 5 cánh quân gồm 270.000 người và 180.000 người khác phục vụ chiến dịch đang từng bước chiếm lĩnh các vị trí xuất phát tiến công vào Sài Gòn.
17 giờ ngày 26/4/1975 cuộc tổng công kích đánh chiếm Sài Gòn bắt đầu, các mục tiêu tấn công ngập chìm trong bão lửa. Mỹ vội vàng mở chiến dịch “người liều mạng” để di tản. Các tướng tá ngụy từ các sư đoàn bị đánh tơi tả, kẻ bị bắt, kẻ đầu hàng, kẻ tự sát, kẻ cởi quân phục lẩn trốn vào đám tàn quân. Tổng thống ngụy muốn xin “bàn giao chính quyền”, các đại diện Mỹ Pháp tìm kế hoãn binh… Nhưng tất cả đã không thể ngăn cản được sức tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng trong “trận đánh cuối cùng” để kết thúc chiến tranh 30 năm.
11 giờ 30 ngày 30/4/1975 chiếc xe tăng biển số 843 của Quân đoàn II đã húc đổ cách cổng sắt Dinh Độc Lập, tiến vào cắm lá cờ giải phóng lên Dinh tổng thống ngụy quyền. Dương Văn Minh phải đầu hàng không điều kiện.
Cùng lúc đó đồng bằng sông Cửu Long cuộc sóng tấn công và nổi dậy. Trong ngày 30/4/1975 tiến công nổi dậy thắng lợi ở Kiến Phong, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Hà Tiên, Long An. Ngày 1/5/1975 các tỉnh Vĩnh Long, Chương Thiện, Cà Mau, Long Xuyên, Châu Đốc, Bến Tre, Kiến Tường và Côn Đảo, Phú Quốc được giải phóng. Đến ngày 2/5/1975 miền Nam Việt Nam từ đất liền đến hải đảo hoàn toàn giải phóng, Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc toàn thắng.
Ngày 15/5/ 1975 từ Hà Nội đến Sài Gòn và khắp các địa phương của Tổ quốc thống nhất, hàng chục triệu người trong những cuộc mít - tinh khổng lồ mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng đã vang lên khúc ca khải hoàn “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”.
Hơn 50 ngày thần tốc, cuộc tổng tấn công nổi dậy mùa Xuân 1975 đã đại thắng. Hơn 1 triệu quân ngụy bị tiêu diệt và ta rã ngay trên hệ thống thiết bị chiến trường của chúng. Ngụy quyền từ trung ương đến các địa phương sụp đổ hoàn toàn. Chế độ thực dân mới dày công xây dựng trong 20 năm bị xóa bỏ. Toàn bộ miền Nam từ đất liền đến hải đảo hoàn toàn giải phóng.
*
* *
Như Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổng kết ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa kết thúc thắng lợi: “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của Chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Kết thúc cuộc kháng chiến 21 năm nhân dân ta cũng kết thúc quá trình 30 năm chiến tranh cách mạng, chấm dứt hơn 1 thế kỷ bị thực dân đế quốc thống trị. Non sông thu về một mối, Nam - Bắc sum họp một nhà trong độc lập tự do. Truyền thống yêu nước bất khuất, kiên cường của dân tộc lại ghi thêm những trang sử mới oanh liệt và hào hùng.
Kết thúc một cuộc chiến tranh lâu dài nhất, tốn kém nhất, quy mô nhất, ác liệt dã man nhất kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Mỹ bị đảo lộn chiến lược toàn cầu và bước vào “thời kỳ sau Việt Nam” thật nặng nề. Trong lúc ấy một nước Việt Nam thống nhất ra đời cái tên mới “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” và bước vào thời kỳ xây dựng đất nước như nguyện ước của Bác Hồ “to đẹp hơn, đàng hoàng hơn”.
Ra khỏi một cuộc chiến tranh có tính chất “cuộc đụng đầu lịch sử”, cả Việt Nam và Mỹ đều phải chịu nhiều tổn thất to lớn. Chỉ tính về con người trong cuộc chiến này, theo số liệu thống kê của Đảng ta, Mỹ có 57.692 người chết, 300.000 người bị thương, 100.000 người bị tàn tật; Việt Nam có 1.100.000 liệt sĩ, 600.000 thương binh, 300.000 người mất tích, gần 2.000.000 người dân vô tội bị giết hại, 2.000.000 người dân khác bị tàn tật, 2.000.000 bị nhiễm chất độc hóa học…
Hậu quả chiến tranh nặng nề không dễ dàng khắc phục. Làm sao mà quên được những mất mát đau thương. Nhưng lịch sử cũng nhắc nhở ta rằng phải giữ lấy quá khứ ở phía sau khi nhìn về phía trước. Đó là cách tốt nhất để lưu giữ “thời đánh Mỹ” vào ký ức dân tộc.


Copy đường link dưới đây gửi đến nick yahoo bạn bè!



LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang
* Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc.
* Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết.
* Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình.
-Nếu chèn smilies có vấn đề thì bấm A/a trên phải khung viết bài
Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Học Sinh Nguyễn Dục-Tam Dân- Phú Ninh- Quảng Nam :: Hình ảnh :: Giao lưu _kết bạn-
Skin rip and fix by dothinh-11b6
Copyright © NguyenDucPN.Tk 2009 - 2010
Powered by phpBB2 - GNU General Public License. Host in France. Support by Forumotion.
Xem tốt nhất ở độ phần giải 1280x1024 hoặc lớn hơn và trên trình duyệt Firefox
Get Firefox Now Get Windows Media Player Now

LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Empty  Free forums | © phpBB | Free forum support | Statistics | Liên hệ | Report an abuse   LICH SU VIET NAM 1954-1975(phan3) Empty

Create a forum on Forumotion | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất